Thứ Hai, 6 tháng 1, 2020

Gene Sharp người thầy nhân ái của các cuộc “Cách Mạng Bất Bạo Động”.


Gene Sharp người thầy nhân ái của các cuộc “Cách Mạng Bất Bạo Động”.
I-Thống kê các thành quả của Cách Mạng Bất Bạo Động(CMBBĐ)
II-Gene Sharp là ai?
III-Cách Mạng và Bất Bạo Động
IV-CMBBĐ trang bị các loại vũ khí gì? Phương tiện vận hành CMBBĐ có từ Internet
V- Cách Mạng BBĐ áp dụng cho Việt Nam.
VI- Kết luận
Giới thiệu Cách Mạng Bất Bạo Động:





G.S. Gene Sharp
        -Những cuộc Đấu Tranh Bất Bạo Động cho Ấn Độ (từ 1918-1948) của Mahatma Ganhdi   và những cuộc tuần hành Bất Bạo Động của mục sư Martin Luther King Jr tại Hoa Kỳ (kể từ năm 1963-1968) là những nguồn cảm hứng cho các nghiên cứu CMBBĐ của GS Gene Sharp.
-Trên 30 cuộc Cách Mạng Bất Bạo Động[i] (CMBBĐ) cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 đã thành công vang dội từ một vị thầy duy nhất : GS Gene Sharp đã nói lên thành quả không thể chối cải của phuơng pháp CMBBĐ. Với những thành quả Vĩ Đại mà vị Lý Thuyết Gia vẫn sống thầm lặng, trong sạch và khổ hạnh đã chứng minh không có thế lực nào đàng sau ông, không có ông tổng thống nào bảo trợ, không có nhà tài phiệt nào đở đầu, kể cả CIA không đứng sau lưng đã nói lên con người  Gene Sharp. Tuy nhiên không phải bất cứ cuộc CMBBĐ thảy đều thành công: điển hình vụ Thiên An Môn[ii] tại Trung Quốc, thế lực độc tài đã trấn áp hoàn toàn cuộc nổi dậy của trên 100.000 sinh viên, học sinh, số sinh viên, học sinh tử vong từ 2600(theo tin bán chính thức từ Hoa Kỳ)cho đến 10.000(theo tin từ Khối Xô Viết). Có những cuộc CMBBĐ ban đầu nhưng sau đó biến thành Bạo Động do bị đàn áp thô bạo.
-Để làm sáng tõ về vị GS khả kính Gene Sharp và về  Tư Tưởng Cách Mạng Bất Bạo Động (CMBBD) chúng  tôi sẽ trình bày chi tiết qua 6 đề mục nêu trên.  Những bằng chứng thực tế qua các vị lãnh tụ Cách Mạng đã thành công chứng tõ phương pháp CMBBĐ đã thành công không thể chối cải. Đó là con đường ngắn nhất, ít thiệt hại nhân mạng nhất và làm cho bọn Độc Tài sợ hải nhất. Nếu không có những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật của Internet toàn cầu thì sẽ không có CMBBĐ.
I-Thống kê các thành quả của Cách Mạng Bất Bạo Động: Sau thời kỳ Chiến Tranh Lạnh chấm dứt ở cuối thế kỷ 20, khi khối Liên Xô Vĩ Đại sụp đổ năm 1991 kéo theo 15 nước Cộng Hoà vùng Đông Âu đổ nhào , nhiều người vẫn còn hoài nghi về phương pháp CMBBĐ. Những câu hỏi đặt ra: Cách Mạng nào cũng đổ máu, CMBBĐ không có vũ khí làm sao thành công, quỳ gối mà xin Dân Chủ à! Xui dại để đẩy dân lành vào chỗ chết để bọn cò mồi hưởng lợi, trò nầy xưa rồì ai cũng biết đừng hòng lừa dối như bọn Cộng Sản Quốc Tế đã từng dụ dỗ và luờng gạt cả thế giới. Nhưng những thống kê rõ ràng đã chứng minh Tư Tưởng CMBBĐ của GS Gene Sharp đã thành công vang dội, đó    con đường ngắn nhất và ít đổ máu nhất để đạp đổ một thể chế độc tài.
A-Các cuộc Cách mạng Dân Chủ thành công ở khu vực Động Âu:

 

1-Ba Lan:Cách Mạng Dân Chủ tại Ba Lan từ năm 1980 – 1989:[iii]






Tổng thống Hoa Kỳ George H. W. Bush (bên phải), Barbara Bush (bên trái) với Wałęsa (giữa) ở Warsaw, tháng 7 năm 1989.


Trong bài diễn văn nổi tiếng đọc trước một triệu người Balan tại quảng trường Chiến Thắng ở thủ đô Warsawa ngày 2 tháng 6 năm 1979, đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II khẳng định rằng "con người không thể hiểu mình một cách trọn vẹn nếu không có Ðức Kitô. Do đó, không thể loại bỏ Ðức Kitô ra khỏi lịch sử của nhiều người trên thế giới này".
Dân chúng đã đáp trả lại bằng 14 phút vỗ tay và đồng thanh ca bài "Christus vincit, Christus regnat, Christus imperat" [Chúa Kitô chiến thắng, Chúa Kitô hiển trị, Ðức Kitô cai quản]. Với bài ca này, họ tuyên xưng rằng chính Thiên Chúa là Chủ Tể chứ không phải nhà nước.
Sáng 10 Tháng Sáu, n ăm 1979 ngày cuối cuộc du hành mục vụ lần thứ nhất, theo ghi nhận của tác giả “His Holyness,...” ước tính có khoảng 2 triệu 500 ngàn dân chúng tụ tập tại Blonie để chào mừng ngài - hiện tượng có một không hai trong một quốc gia Cộng Sản!

Công Ðoàn Ðoàn Kết Ba Lan ra đời[iv]


Ðức Giáo Hoàng John Paul II (phải) đón lãnh đạo Xô Viết Mikhail Gorbachev (trái) ngày 1 Tháng Mười Hai, 1989, tại Roma, trong cuộc gặp gỡ lịch sử ở Vatican. (Hình: Derrick Ceyrac/AFP/Getty Images)
Từ cuộc viếng thăm lịch sử ấy, người dân Ba Lan như được đánh thức sau giấc ngủ dài. Một cao trào đấu tranh trong hàng ngũ công nhân, thợ thuyền bùng lên như thác lũ. Trong bối cảnh ấy, Công Ðoàn Ðoàn Kết Ba Lan, dưới sự lãnh đạo của người thợ điện Lech Walesa, chính thức ra đời với hàng triệu đoàn viên. Ðây là một thách đố đối với chủ nghĩa bá quyền cộng sản, một chủ nghĩa sống nhờ sức lao động nhưng lại phủ nhận tất cả mọi quyền sống, quyền tự do của người lao động.

Hàng loạt những cuộc đình công do Công Ðoàn Ðoàn Kết chỉ đạo nổ ra khắp nước. Trước tình trạng ấy, Moscow quyết liệt phản ứng. Trong khi dồn áp lực lên Varsovie, đòi ban bố lệnh thiết quân luật và đặt Công Ðoàn Ðoàn Kết ra ngoài vòng pháp luật, các đại đơn vị quân đội Liên Xô và chư hầu âm thầm được huy động tới biên giới Ba Lan.

Trước tình trạng ấy, dĩ nhiên Giáo Hoàng Gioan Phaolô không ngồi yên. Ngày 22 Tháng Hai, 1980, ngài gửi một văn thư khẩn cho Brezhnev, yêu cầu ông ta tự chế, không được can thiệp vào nội tình Ba Lan. 
 


Diển tiến cuộc Cách Mạng Dân Chủ Bất Bạo Động tại Ba Lan[v]:








Tháng 9 năm 1980 tức là hơn 1 năm sau chuyến viếng thăm Ba Lan của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II , Công Đoàn Đoàn Kết ra đời[vi]
22.1.1989
: Công Đoàn Đoàn Kết đồng ý tham gia Hội Nghị Bàn Tròn với chính quyền Cộng sản Ba Lan.
6.2.1989: Hội Nghị Bàn Tròn khai mạc.
9.3.1989: Tiểu ban chính trị trong Hội Nghị Bàn tròn đã quyết định tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 6 và thảo luận về Tổng Thống Chế.
5.4.1989: Hội Nghị Bàn Tròn bế mạc, hai bên đồng ý thiết lập Tổng Thống chế, công nhận sự hợp pháp của Công Đoàn Đoàn Kết.
17.4.1989: Công Đoàn Đoàn Kết chính thức đăng lục là Nghiệp Đoàn Tự Quản.
4.6.1900: Bầu cử quốc hội đợt I, tỷ lệ đi bầu đạt 62%.
8.6.1989: Công bố kết quả tuyển cử đợt I, Công Đoàn Đoàn Kết đại thắng chiếm 161 ghế Hạ Viện, 99 ghế Thượng viện.
Bất kể sức mạnh tuyên truyền và khủng bố của nhà nước cộng sản, trên 10 triệu người Balan đã đồng thanh đòi hỏi phải có sự thay đổi trong xứ sở bằng con đường của liên đới xã hội với niềm tin, đức cậy và đức mến. Công đoàn Ðoàn kết và phong trào xã hội đã thực hiện cuộc cách mạng ôn hòa lật đổ chế độ cộng sản độc tài tại Balan và từ Balan các cuộc Cách Mạng BBĐ khác đã nổi lên quét sạch các chế độ cộng sản khác trên toàn Ðông Âu. Đây là biến cố đầu tiên ở khu vực Đông Âu, khởi sự cho một chuổi Cách Mạng tiếp theo của các quốc gia Đông Âu và cả khối  Liên Bang Xô Viết và kế tiếp 22 quốc gia vùng Trung Đông, Bắc Phi. Hiện tượng Ba Lan ảnh hưởng đến cả thế giới bao gồm các quốc gia bị áp bức dưới sự cai trị độc tài.


2-Hungary: Cách Mạng Dân Chủ Hungary t
16.06.1989 đến 30.06.1991:


Tinh thần Nagy Imre chống độc tài Liên Xô :"Đây, Nagy Imre, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Nhân dân Hungary. Rạng sáng hôm nay, các đạo quân Xô-viết đã tấn công thủ đô của chúng ta với ý đồ rõ ràng, là lật đổ chính phủ dân chủ của nước Hung. Quân đội chúng ta đã kháng cự lại. Chính phủ ở vị trí của mình. Tôi thông báo điều này với toàn dân Hung, và với công luận thế giới!" (Budapest, ngày 4-4-1956)
Cuộc cách mạng thất bại, thủ tướng Nagy Imre bị kết án tử hình trong một phiên tòa ngụy tạo ngày 16-6-1958, được tổ chức theo chỉ thị của Moscow. Trong vòng 30 năm, dân Hung không được nhắc đến cái tên Nagy Imre, nhưng đa số các tổ chức đối lập dân chủ ở nước này đều lấy những ý tưởng của ông làm mục đích đấu tranh.
Tinh thần Nagy Imre vẫn còn đó và năm 1989 đã khởi đầu một cuộc Cách Mang Dân Chủ Bất Bạo Động tại Ba Lan đi đến thành công ngoạn mục không đổ máu[vii]:
BIẾN CỐ 16-6-1989:


 Những vòng hoa trong ngày tái mai táng cố thủ tướng Nagy Imre, được coi là ngày hóa hợp hòa giải của dân tộc Hungary (16-6-1989)


Năm 1988, nhân 30 năm ngày mất của Nagy Imre, các nhân sĩ nổi tiếng ở châu Âu, trong số đó có 27 người được giải Nobel và 6 viện sĩ hàn lâm Pháp, cùng các chính khách hàng đầu khác, đã lên tiếng đòi hỏi chính phủ cộng sản Hung phải phục hồi danh dự cho ông Nagy Imre. Tại nước Hung, một ủy ban lấy tên "Ủy ban trả lại công lý cho lịch sử" được thành lập với sự tham gia của các nhân sĩ Hung, trong số đó có cả những cựu tử tù hoặc tù chung thân của cách mạng 1956, như ông Göncz Árpád, sau này là tổng thống Hung 2 nhiệm kỳ từ 1990 đến 2000. Ủy ban này, được sự ủng hộ của toàn thể phe đối lập, đã tổ chức vào ngày 16-6-1989 một cuộc xuống đường khổng lồ để phục hồi danh dự cho Nagy Imre và các đồng sự của ông. Về mặt hình thức, 16-6 được coi là ngày "tái mai táng" trọng thể Nagy Imre.
Cuộc xuống đường này có ý nghĩa lịch sử vô cùng lớn lao trong cách mạng dân chủ Hung năm 1989. Thoạt đầu, Ban tổ chức rất lo ngại những kẻ khiêu khích, hoặc những người không giữ được bình tĩnh, sẽ gây ra bạo động và làm mờ nhạt mục tiêu cao cả là hóa giải những oan khiên trong lịch sử dân tộc Hung. Nhưng cuối cùng, đã không hề có một tiếng súng, một hành vi bạo lực nào xảy ra. Lần lượt, các đại biểu của phe đối lập lên phát biểu, nêu rõ ý nghĩa lịch sử của cách mạng 1956, kêu gọi dân Hung chuyển mình để biến đất nước thành một xứ sở tự do, độc lập, hòa bình, biến nhà nước Hung thành một nhà nước pháp quyền, phục vụ nhân dân chứ không phải đứng trên đầu người dân. Trong cuộc xuống đường, các gương mặt lớn của phe đối lập dân chủ Hung đã khẳng định sự chín muồi về chính trị của họ, và đó là điều kiện tiên quyết để đem lại sự hòa hợp dân tộc, dẫn đến sự thay đổi thế chế chính trị một cách hòa bình ở nước này.
Chắc chắn là cuộc tuần hành kỳ vĩ kể trên đã là động lực thúc đẩy Tòa án Tối cao Hungary, vào ngày 6-7-1989, chính thức ra quyết định bác bỏ bản án ngụy tạo đối với Nagy Imre và các đồng sự. Điều đáng nói là phán quyết này được đưa ra trước vài giờ trước khi Kádár János, người cựu đồng chí, về sau là địch thủ chính trị của Nagy Imre, lặng lẽ qua đời tại Budapest sau khi đã bị tước hết quyền lực về thực chất.
* CÁCH MẠNG DÂN CHỦ HUNG 1989 VÀ NHỮNG SỰ KIỆN DIỄN RA SAU MỐC 16-6-1989
Trước biến cố 16-6, ít ai nghĩ được rằng sự biến chuyển từ mô hình nhà nước độc tài sang nền dân chủ ở Hung lại diễn ra một cách êm ả và không đổ máu như thế. Những gì mà người dân Hung mơ ước trong cuộc cách mạng 1956, đã trở thành hiện thực trong vòng vỏn vẹn 1 năm.
Tháng 9-1989, chính phủ Hung ra quyết định mở biên giới cho nhiều vạn người Đông Đức tị nạn tràn sang Áo và từ đó, qua Tây Đức; quyết định này, theo đánh giá của cựu thủ tướng Đức Helmut Kohl, đã dỡ những viên gạch đầu tiên trong bức tường Berlin. Tháng 10-1989, các lực lượng cải tổ của Đảng Công nhân Xã hội (tức Đảng Cộng sản Hung) trong kỳ Đại hội đã tuyên bố giải tán đảng và thành lập Đảng Xã hội Hung, hoạt động theo mô hình các chính đảng xã hội dân chủ ở phương Tây (đảng này, sau khi đoạn tuyệt hoàn toàn với quá khứ, đã trở thành đảng phái hàng đầu và hiện đang cầm quyền ở Hung). Cũng trong tháng 10-1989, Hiến pháp Hung được sửa đổi, tuyên bố Hung trở thành một nước Cộng hòa và đảm bảo những quyền con người cơ bản của mọi công dân.
Mùa xuân năm 1990, cuộc bầu cử Quốc hội tự do đầu tiên ở Hung sau 45 năm đã được tổ chức, đem lại thắng lợi cho các đảng đối lập. Trong phiên họp đầu tiên ngày 2-5-1990, Quốc hội mới đã thông qua Đạo luật số XXVIII (năm 1990) để "ghi nhớ kỷ niệm của cuộc cách mạng và cuộc đấu tranh đòi độc lập năm 1956". Đồng thời, Đạo luật này cũng "tuyên bố ngày 23-10 - khởi điểm của cuộc cách mạng và cuộc đấu tranh đòi độc lập năm 1956, đồng thời là ngày khai sinh Cộng hòa Hungary năm 1989 - là ngày lễ của dân tộc". Tiếp đó, nước Hung và Liên Xô ký hiệp định rút quân Nga khỏi Hung và vào ngày 30-6-1991, người lính Nga cuối cùng đã rời khỏi lãnh thổ Hung; sự kiện này, trên thực tế, chứng tỏ cuộc cách mạng dân chủ Hung đã hoàn thành không đổ máu.

3-Cộng Hoà Dân Chủ Đức (Đông Đức) và cuộc CMBBĐ năm 1989:


Đêm 12 rạng sáng 13 tháng 8 năm 1961, những viên đá đầu tiên đã được đặt xuống thành phố Bá linh, từ đó, bức tường ô nhục dựng lên bất chấp sự phản đối của trên 300.000 người dân Tây đức. Máu đã đổ trên bức tường này khi gần 5000 người đã tìm cách vượt qua biên giới, trên 200 người đã ngã xuống để trả giá cho tự do.

Bức tường Bá Linh sụp đổ













Nhưng rồi, 28 năm sau đó, như một phép lạ, đêm 9 tháng 11 rạng sáng 10/11 năm 1989 những viên gạch ô nhục ấy đã được đập vỡ trong niềm hân hoan vô bờ của hai vùng đất nước dẫn theo một loạt tan rã của chủ nghĩa cộng sản ở Đông âu[viii]
Bức tường dài 155 km, biểu tượng của sự chia lìa nay chỉ còn là một vành đai xanh cho người đi xe đạp để gợi nhớ lại một  giai đoạn bi thương của lịch sử đã sang trang.
"Đêm hôm đó cảnh sát Đông Đức đã tự động bỏ súng xuống để cho người ta tự động đi qua cửa biên giới. Riêng ở Berlin, từ 21 giờ đến 2 giờ sáng đã có khoảng 20.000 người đã vượt bức tường Berlin để đi qua vùng Tây Bá Linh... “Trong ngày lịch sử của nước Đức, chúng tôi vui mừng và ứa nước mắt khi thấy cảnh người dân Tây và Đông Đức ôm nhau gặp gỡ nhau sau 28 năm chia cắt. Người Việt lao động ở Đông Đức và Đông Âu sau đó cũng tìm cách sang Tây Bá Linh, sang Tây Đức để xin tị nạn”









Gần một năm sau khi bức tường Bá Linh bị san bằng, nước Đức chính thức thống nhất ngày 3 tháng 10 năm 1990 và ngày này cũng được coi là ngày Quốc Khánh. Những năm đầu tiên, trên 40 triệu dân Tây Đức một sớm một chiều đã phải cưu mang thêm gần 18 triệu dân Đông Đức.... Gánh nặng bên kia bức tường Bá Linh trao lại cho nước Đức thống nhất không phải nhỏ, người dân Tây Đức đã đóng góp rất nhiều để có một nước Đức cường thịnh và phát triển như hôm nay.
“Phải nhìn thấy rằng là sự giúp đỡ của người dân Tây Đức đối với người dân Đông Đức rất lớn. Chúng tôi đi làm phải đóng 7% lương của mình vào một quỹ gọi là “quỹ xây dựng lại Đông Đức.”
Sau một thời gian ổn định lại lòng người cũng như vật chất. Nước Đức đã lấy lại cân bằng và phát triển.  Sự sáng suốt của những người nắm giữ những vai trò quan trọng trong bộ máy hành chánh của nước Đức có phải chăng là nhờ họ đã có một quá khứ đau thương dưới chế độ Cộng sản ? 
...Một điểm rất là đặc biệt là hai người nắm giữ quyền lực cao nhất của nước Đức là Tổng thống Đức và bà Thủ tướng Merkel đều xuất thân từ Đông Đức thành ra họ có những tầm nhìn xa. Chính vì những hoạt động đảng phái mà họ có tầm nhìn xa như vậy đã đóng góp phần nào về sự phát triển của nước Đức. Họ đã không có những chuyện như tù đầy, trại cải tạo hay đàn áp. Nếu mà so với sự thống nhất của Việt Nam thì họ đã khôn khéo nhìn ra vấn đề đó để mà phát triển nước Đức thành một trong những cường quốc, ít nhất là cường quốc về kinh tế hiện này trên thế giới. Khẩu hiệu họ đưa ra là 25 năm cuộc cách mạng ôn hoà và bức tường Bá Linh đổ hay là 25 năm Tư do và nước Đức thống nhất trong đa dạng (Vereint in Vielfalt) Nước Đức thống nhất không đổ máu, không một tiếng súng.     
“Một sự khác biệt rất rõ ràng: sự thống nhất của nước Đức là do sự đầu hàng của chế độ Cộng sản , họ từ chối chế độ Cộng sản, đó là sự thất bại của chế độ Cộng sản. Còn ở Việt Nam thì sự thống nhất ở Việt Nam là sự thống nhất trong bạo lực. Nên sự thống nhất ở Việt Nam đưa nước Việt Nam mình xuống dốc, còn sự thống nhất của nước Đức tạo ra một nền kinh tế tự do và con người được phát triển theo bảo đảm của Nhân quyền.”
Nước Đức thống nhất trong hoà bình, cường thịnh. Sau 25 năm, các thành phố ở Đông đức được xây dựng lại tân tiến hơn cả Tây Đức. Việt Nam sau gần 40 năm thống nhất vẫn còn những chênh lệch  giầu nghèo quá lớn.
“Nước Đức thống nhất trong hoà bình, không đổ máu, không tiếng súng. Đức tôn trọng nhân quyền, kinh tế vững mạnh, có uy tín và được thế giới ngưỡng mộ. Nhìn về Việt Nam thì nước Việt Nam thống nhất có quá nhiều thương đau, mất mát trong một cuộc nội chiến tàn bạo. Muốn có dân chủ trong nước thì bị bắt bớ, tù đày, độc lập dân tộc thì bị đe doạ.”

4-Tiệp Khắc CMBBĐ hay  Cách Mạng Nhung 1989:

Cách mạng Nhung là một cuộc cách mạng bất bạo động tại Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Tiệp Khắc diễn ra từ ngày 16 tháng 11 năm 1989 đến ngày 29 tháng 12 cùng năm và dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa đã kéo dài 41 năm tại nước này. Sự kiện này nằm trong chuỗi sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa tại khắp các nước Đông Âukhác trong năm 1989.
Ngày 17 tháng 11 năm 1989, cảnh sát đã đàn áp cuộc biểu tình hòa bình của sinh viên thủ đô Praha kỷ niệm 50 nămNgày Sinh viên Quốc tế. Bắt đầu từ ngày 19 tháng 11 năm 1989, hàng loạt những cuộc biểu tình của người dân Tiệp Khắc đã diễn ra trên khắp đất nước cho đến tận cuối tháng 12. Đặc biệt vào ngày 20 tháng 11, số lượng người tham gia biểu tình tại Praha đã tăng từ 200.000 người của ngày hôm trước lên đến nửa triệu người.[1] Ngày 27 tháng 11, một cuộc đình công phản đối đồng loạt trên toàn quốc đã diễn ra trong hai giờ đồng hồ.
Cùng với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa tại hầu khắp các nước Đông Âu khác cũng như sức ép của quần chúng nhân dân ngày càng dâng cao, vào ngày 28 tháng 11 Đảng Cộng sản Tiệp Khắc đã tuyên bố từ bỏ quyền lực và giải tán chế độ một đảng duy nhất nắm quyền. Vào đầu tháng 12, những hàng rào dây thép gai trên biên giới với Tây Đức  Áo được dỡ bỏ. Ngày 10 tháng 12, chủ tịch nước Gustav Husak đã chỉ định một chính phủ phần lớn không là cộng sản rồi sau đó từ chức.Alexander Ducek, người từng lãnh đạo phong trào Mùa Xuân Praha trước đây được cử làm phát ngôn viên của chính phủ nước Cộng Hòa Tiệp Khắc, vào ngày 28 tháng 12. Vaclav Havel được bầu làm tổng thống mới của Tiệp Khắc.






Václad Havel trước hằng trăm ngàn người mừng ngày "Cách mạng Nhung" thành công 10 tháng 12, 1989
Vào tháng 6 năm 1990, một cuộc bầu cử tự do, dân chủ, đa đảng đầu tiên từ năm 1946 đã được tổ chức tại Tiệp Khắc để thành lập chính phủ mới. Kết quả của cuộc bầu cử: đảng cộng sản chỉ được 13.6% số phiếu.[ix]
5-Cách Mạng Dân Chủ tại Bulgary 1989:

Trong các đảng Cộng sản tại Đông Âu cũ, đảng Cộng sản Bulgaria được coi là một đảng vô cùng trung thành với Liên Xô về mọi phương diện. Đặc biệt là việc Tổng bí thư Todor Zhivkov đưa ra chính sách công nghiệp hóa được Liên Xô giúp đỡ để "cầm chân" nước này trong vùng Balkan, điều này vô hình chung đã giúp cho triều đại Todor Zhivkov vững chắc, với 35 năm độc chiếm quyền lực cai trị. Tuy vậy, Bulgaria cũng không đi ra khỏi cảnh ngộ chung của các nước Cộng sản là luôn luôn phải đối phó với một nền kinh tế khủng hoảng, mặc dù trên bình diện chính trị vẫn ổn định. Hơn nữa, Bulgaria vốn là một quốc gia nông nghiệp, đa số dân chúng sống ở nông thôn, ít có điều kiện tiếp xúc với bên ngoài, cho nên ý thức chống đối chỉ tiềm ẩn trong thành phần trí thức, quần chúng ở các thành phố lớn.

Ngoài ra, khi phong trào đòi tự do dân chủ lan sang đến Đông Đức, và khi bức tường Bá Linh sụp đổ (9-11-1989), đảng Cộng sản Bulgaria đã đi trước tình hình, thay thế Tổng bí thư Todor Zhivkov bằng Peter Mladenov vào ngày 10-11-1989. Lúc đó, những cuộc biểu tình đầu tiên của quần chúng chỉ vừa xảy ra ở thủ đô Sofia, quy tụ chỉ được vài ngàn người. Tổng bí thư Peter Mladenov đã thay đổi chính sách rất nhanh, tuyên bố cho phép dân chúng hoạt động chính trị, tổ chức tổng tuyển cử tự do vào tháng 6-1990.[x]

Cùng thời gian này, Tổng bí thư Todor Zhivkov của đảng Cộng sản Bulgaria và Tổng bí thư Milos Jakes của đảng Cộng sản Tiệp Khắc từ chức. Đương nhiên mỗi nước có một số hoàn cảnh khác nhau, nhưng điểm đặc biệt chung là thành phần trí thức đã đứng trên tuyến đầu, vận động quần chúng tham gia đấu tranh tạo áp lực lên thành phần lãnh đạo cộng sản. Riêng cuộc cách mạng dân chủ ở Bulgaria thì không có các cuộc đấu tranh của quần chúng. Thành phần đảng viên chủ trương cải cách trong đảng nhìn thấy sự bế tắc nên đã sớm chấp nhận thay đổi trước. Đây có thể coi như hình thức đảng tự tan rã từ bên trong. 
Như vậy so với các đảng Cộng Sản tại Đông Âu thì Bulgary giải quyết êm thấm hơn, trả lại Tự Do cho dân Bulgary  vào tháng 6 năm 1990 không đổ máu.
6-Nam Tư Cách Mạng Bất Bạo Động năm 1990:

 Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên bang Nam Tư không phải là một phần của Khối hiệp ước Warszawa, nhưng theo đuổi phiên bản "cộng sản" riêng của mình theo Josip Broz Tito.Đó là một nhà nước đa sắc tộc, và những căng thẳng giữa các dân tộc đầu tiên leo thang với mùa xuân Croatia cái gọi là của 1970-71, một phong trào tự trị lớn hơn của Croatia, đã được dập tắt. Năm 1974 có thay đổi hiến pháp theo phân cấp một số các quyền hạn của liên bang cho các nước cộng hòa thành phần và các tỉnh. Sau cái chết của Tito vào năm 1980 đã tăng căng thẳng sắc tộc, đầu tiên Kosovo cộng đồng đa số tiếng Albania. Trong cuối những năm 1980 lãnh đạo Serbia Slobodan Milošević sử dụng cuộc khủng hoảng Kosovo để thúc đẩy tăng chủ nghĩa dân tộc Serbia và cố gắng để củng cố và thống trị đất nước, xa lánh các nhóm dân tộc khác.
Song song với quá trình này, Slovenia đã chứng kiến một chính sách tự do hóa dần dần từ năm 1984, không giống như các Perestroika của Liên Xô. Điều này gây căng thẳng giữa các Liên minh Cộng sản của Slovenia ở một bên, và Trung ương Đảng và Quân đội Liên bang Nam Tư ở phía bên kia. Vào giữa tháng năm 1988, Liên minh nông dân của Slovenia đã được tổ chức như tổ chức chính trị đầu tiên phi cộng sản trong nước. Sau đó trong cùng một tháng, quân đội Nam Tư bị bắt giữ bốn nhà báo của tạp chí Mladina, kết án họ là tiết lộ bí mật nhà nước. Phiên toà Ljubljana gây ra cuộc biểu tình quần chúng ở Ljubljana, các thành phố của Slovenia khác. Ủy ban Bảo vệ nhân quyền được thành lập như là nền tảng của tất cả phong trào chính trị Phi Cộng sản. Đến đầu năm 1989, một số đảng phái chính trị chống Cộng sản đã được công khai hoạt động, thách thức quyền bá chủ của Đảng cộng sản Slovenia. Ngay sau đó, Đảng Cộng sản Slovenia, dưới áp lực của xã hội dân sự của mình, bước vào trong cuộc xung đột với các lãnh đạo Cộng sản Serbia.
Vào tháng Giêng năm 1990, Đại hội bất thường của Liên đoàn của Cộng sản Nam Tư đã được triệu tập để giải quyết các tranh chấp giữa các bên độc lập. Ở thế thiểu số, những người Cộng sản Slovenia rời bỏ Quốc hội, do đó trên thực tế mang đến sự kết thúc Đảng Cộng sản Nam Tư. Đảng Cộng Sản Slovenia đã được theo bởi những người Croatia. Cả hai bên của hai nước cộng hòa miền Tây đàm phán tự do bầu cử đa đảng với các phong trào đối lập của riêng mình.
Vào mùa xuân năm 1990, trình diễn dân chủ và chống Nam Tư liên minh đã giành được cuộc bầu cử tại Slovenia, trong khi các cuộc bầu cử Croatia đã chứng kiến chiến thắng của những người theo chủ nghĩa dân tộc. Các kết quả đã được nhiều cân bằng hơn ở Bosnia và Herzegovina và Macedonia, trong khi các cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống ở Serbia và Montenegro hợp nhất sức mạnh của Milošević và những người ủng hộ ông ta. Cuộc bầu cử tự do vào mức độ liên bang đã không bao giờ thực hiện. Thay vào đó, các lãnh đạo Slovenia và Croatia bắt đầu chuẩn bị kế hoạch ly khai khỏi liên bang.
Leo thang căng thẳng sắc tộc và quốc gia đã dẫn tới các cuộc chiến tranh Nam Tư và độc lập của các (liên bang) các đơn vị thành phần, trình tự thời gian:
·       Slovenia (25 tháng 6 1991)
·       Croatia (25 tháng 6 năm 1991)
·       Cộng hòa Macedonia (Ngày 08 tháng chín năm 1991)
·       Bosnia và Herzegovina (Ngày 01 tháng 3 năm 1992)
·       Serbia và Montenegro (2 công đoàn nhà nước từ 1992-2006). Montenegro tuyên bố độc lập vào ngày 03 tháng 6 năm 2006, trong khi Serbia tuyên bố thừa kế của mình cho các công đoàn như là một nhà nước độc lập vào ngày 05 tháng 6 2006.
·       Kosovo (ngày 17 tháng 2 năm 2008, một phần được công nhận)
7-Albania CMBBĐ khởi sự từ năm 1989 và kết thúc 1992:
Tại Cộng hoà xã hội chủ nghĩa nhân dân Albania, Enver Hoxha, người cai trị Albania trong bốn thập kỷ với bàn tay sắt, đã chết vào 11 Tháng Tư năm 1985. Năm 1989, các cuộc nổi dậy đầu tiên bắt đầu tại Shkodra và lây lan ra các thành phố khác. Cuối cùng, chế độ hiện hành đưa một số tự do hóa, bao gồm cả các biện pháp năm 1990 quy định quyền tự do đi du lịch nước ngoài. Những nỗ lực bắt đầu cải thiện quan hệ với thế giới bên ngoài. Tháng 3 năm 1991 cuộc bầu cử cho phép những người cộng sản trước đây nắm quyền, nhưng một cuộc tổng biểu tình và đối lập đô thị dẫn đến việc thành lập một nội các liên minh bao gồm cả phi cộng sản. Đảng cựu cộng sản Albania đã bị loại trong cuộc bầu cử tháng ba năm 1992, giữa lúc sự sụp đổ kinh tế và bất ổn xã hội.
Cuộc Cách Mạng Dân Chủ tại Albania không có nổ súng và kết thúc êm thắm.

8-Sự sụp đổ của Liên Xô và 14 quốc gia chư hầu bằng Cách Mạng Bất Bạo Động:
 Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở
 Liên Xô và các nước Đông Âu hay được phương Tây gọi Cuộc cách mạng năm 1989 (cũng được gọi là Mùa thu của Cộng sản, Sự sụp đổ của Cộng sản, Các cuộc cách mạng ở Đông Âu  Mùa thu của Quốc gia  ) là sự sụp đổ của các nhà nước cộng sản theo kiểu Liên Xô ở Đông Âu.
Những sự kiện này bắt đầu từ Ba Lan vào năm 1989, và tiếp tục ở Hungary,Đông Đức, Bungary, Tiệp Khắc  România. Một tính năng phổ biến cho hầu hết các sự phát triển này là việc sử dụng rộng rãi các chiến dịch của lực lượng đối lập chống lại chế độ độc đảng và góp phần gây áp lực với sự thay đổi  .
Romania là nước Đông Âu duy nhất lật đổ chế độ Cộng sản của mình bằng bạo lực  . 
Ceausescu là nhà độc tài khát máu hai vợ chồng bị xử tử.

 Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô) đã chính thức chấm dứt tồn tại ngày 26 tháng 12 năm 1991 bởi bản tuyên bố số 142-H của Hội đồng tối cao Liên bang Xô Viết. Tuyên bố này công nhận nền độc lập của mười hai nước cộng hòa của Liên bang Xô viết còn lại (tổng cộng 15 nước) và thành lập Cộng đồng các Quốc gia Độc lập (CIS). Một ngày trước đó, 25 tháng 12 năm 1991, tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev đã từ chức và bàn giaomật mã kích hoạt tên lửa hạt nhân của Xô Viết cho tổng thống Nga Boris Yeltsin. Vào hồi 7:32 tối cùng ngày,quốc kỳ Liên Xô đã được hạ xuống từ điện Kremli và thay thế bằng quốc kỳ Nga[xi].  
Litva đã tuyên bố độc lập vào tháng 3 1990, trong tháng 8 1991 Estonia  Latvia nối đuôi. Một tuần trước khi chính thức giải tán, 11 trong số 12 nước cộng hòa còn lại của Liên Xô đã ký Nghị định thư Alma- Ata chính thức thành lập CIS và tuyên bố rằng Liên Xô đã không còn tồn tại. Sự sụp đổ của quốc gia cộng sản đầu tiên và lớn nhất trên thế giới đã đánh dấu kết thúc chiến tranh Lạnh. Những cuộc cách mạng năm 1989 và sự tan rã của Liên bang Xô viết đã dẫn đến sự kết thúc hàng thập kỷ đối đầu giữa NATO  Khối Warszawa, vốn đã được xem là đặc trưng của Chiến tranh Lạnh.
B-Các cuộc Cách Mạng thành công tại Trung Đông và Bắc Phi:
1-Cách mạng Tunisia hay còn gọi Hoa Nhài[xii] (Hoa Lài) gồm những cuộc biểu tình BBĐ diễn ra ở Tunisia, trong đó người dân xuống đường biểu tình để phản đối chính quyền Tunisia. Các cuộc biểu tình và bạo loạn được báo cáo đã bắt đầu trong vấn đề thất nghiệp, giá cả thực phẩm tăng, chính quyền tham nhũng,  tự do ngôn luận   mức sống của người dân thấp. Các cuộc biểu tình lên tới đỉnh điểm bằng sự lật đổ tổng thống Zine El Abidine Ben Ali, người đã từ bỏ chức tổng thống và bỏ chạy

Tunisia ngày 14 tháng 1 năm 2011 sau 23 năm cầm quyền.
Các cuộc biểu tình bắt đầu vào tháng 12 năm 2010 khi Mohamed Bouaziziđã tự thiêu sau khi cảnh sát tịch thu hàng sản xuất của mình.  Các cuộc biểu tình tạo nên một làn sóng mạnh mẽ nhất của tình trạng bất ổn xã hội và chính trị ở Tunisia trong ba thập kỷ qua[9][10] và đã có một số người bị thương và tử vong. Sau khi Ben Ali bỏ chạy, một cuộc bầu cử mới được kêu gọi thực hiện trong vòng 60 ngày. Các cuộc biểu tình cũng được gọi là Cách mạng Jasmine (Cách mạng hoa nhài) trên các phương tiện truyền thông phương Tây trong việc giữ với các thuật ngữ địa chính trị của cuộc "cách mạng sắc màu". Sau khi kết thúc cuộc biểu tình thì theo thống kê có khoảng 219 người bị tử vong .
Đây được coi là cuộc cách mạng dân chủ phi bạo lực của nhân dân Tunisia, được đặt tên theo loài hoa của quốc gia, nổi dậy khiến Tổng thống Zine El Abidine Ben Ali của nước này bị lật đổ.  Tổng thống Ben Ali từ chức sau 23 năm đương nhiệm.
 Tổng thống độc tài Zine El Abidine Ben Ali, trước kia là một nhân vật quân sự, đã nắm quyền từ năm 1987...Ngoài chính sách cai trị cứng rắn, tình trạng tham nhũng, hối lộ ở Tunisia, đã trở thành quốc nạn, đã được bảo kê bởi gia đình cựu tổng thống và gia đình vợ ông ta, tạo điều kiện cho tệ nạn này phát triển và chính sự bất công do nạn tham nhũng, hối lộ hoành hành đã trở thành một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Ben Ali.
Internet bị giới hạn chặt chẽ, gồm cả các site như YouTube.[14] Tuy nhiên, Internet đã có sự phát triển vượt bậc với hơn 1,1 triệu người sử dụng và hàng trăm quán cafe Internet, được gọi là ‘publinet.’ Điều này phần lớn liên quan tới nạn thất nghiệp trên diện rộng và thiếu dân chủ cùng các cơ hội khiến hàng triệu người bị thất nghiệp. Các nhóm nhân quyền độc lập, như Ân xá Quốc tế, đã đưa ra tài liệu rằng các quyền cá nhân không được tôn trọng.
2-Cách mạng Ai Cập năm 2011[xiii] là một loạt các cuộc biểu tình và phản đối ngoài đường phố và các hành vi bất tuân dân sự đã diễn ra tại Ai Cập kể từ ngày 25 tháng 1 năm 2011. Làn sóng biểu tình và bạo động ở Ai Cập được đánh giá là được tiếp sức từ "cách mạng hoa nhài" ở Tunisia, nơi lần đầu tiên một tổng thống Ả rập bị lật đổ bởi sức mạnh của nhân dân.
Người biểu tình Ai Cập diễu hành ngày 25/1/2011
Ngày 11 tháng 2, Tổng thống Hosni Mubarak từ chức và chuyển quyền cho Hội đồng Quân lực Cao cấp vì các cuộc biểu tình nhất định.  Tuy các cuộc biểu tình hạn chế đã xảy ra nhiều lần về trước, kỳ này lớn hơn cuộc biểu tình nào tại Ai Cập sauNáo loạn bánh mì năm 1977. Với người từ nhiều tình trạng kinh tế xã hội và tôn giáo tham gia các cuộc biểu tình,  Ai Cập chưa bao giờ có nổi loạn nhất trí bằng kỳ này.

 

Biểu tình nổ ra từ ngày 25/1, là cuộc biểu tình lớn nhất ở Ai Cập kể từ năm 1977, bốn năm sau khi ông Hosni Mubarak lên nắm quyền tổng thống Ai Cập. Người biểu tình phản đối tổng thống và đòi bộ trưởng nội vụ từ chức bởi cho rằng lực lượng an ninh quá mạnh tay; thiếu bầu cử tự do, thất nghiệp, mong muốn nâng cao mức lương tối thiểu, thiếu nhà ở, lạm phát thực phẩm, tham nhũng, thiếu tự do ngôn luận, và điều kiện sống của người nghèo. Biểu tình diễn ra khắp Ai Cập, trong khi chính quyền Ai Cập cúp các dịch vụ Internet và SMS toàn quốc.28 Tháng Giêng 2011... Thủ đô Cairo của Ai cập bị rung chuyển bởi các cuộc biểu tình mấy ngày qua.
Sáng 29/1, ông Mubarak đã sa thải Nội các, tuyên bố sẽ thành lập một chính phủ mới để thúc đẩy cải cách trong bối cảnh làn sóng biểu tình đường phố tiếp tục leo thang kêu gọi ông từ chức sau 30 năm cầm quyền. Tuy nhiên, ông Mubarak tuyên bố quyết không từ chức trong khi báo chí đưa tin các cuộc đụng độ giữa người biểu tình và cảnh sát tại Ai Cập đã khiến ít nhất 20 người thiệt mạng và hơn 1.000 người bị thương. Trong khi đó, bất chấp lệnh giới nghiêm ban hành tối hôm qua, người biểu tình Ai Cập tiếp tục đốt phá các tòa nhà tại Cairo và chính quyền đã cho bố trí nhiều xe tăng. Hàng chục nghìn người vẫn tụ tập trên các đường phố ở thủ đô Cairo, thành phố Alexandria và Suez - "tâm chấn" của các cuộc biểu tình đã kéo dài 4 ngày.
Các lực lượng an ninh Ai Cập đã bắn lựu đạn cay và đạn có đầu bọc cao su vào người biểu tình chống chính phủ ở trung tâm Cairo. Nhiều xe cảnh sát trang bị vòi rồng đã đậu dọc theo các đường chính ở Cairo, nơi người biểu tình dự kiến sẽ tụ tập.
Tại nhiều nơi trong thành phố có nhiều đám cháy lớn, trong đó có một số tòa nhà chính phủ; và có người còn nghe cả tiếng súng trên đường phố. Trụ sở của đảng Dân chủ Quốc gia đang cầm quyền là một trong những nơi bị đốt. "Tôi hiểu những nhu cầu chính đáng và lo lắng của nhân dân. Tôi yêu cầu chính phủ phải từ chức trong ngày hôm nay. Tôi sẽ thành lập một chính phủ mới ngay vào ngày mai", ông Mubarak tuyên bố ngắn gọn vào rạng sáng ngày 29.1. "Tôi sẽ vì nhân dân phục vụ hàng ngày", ông Mubarak nói. "Song dù chúng ta đang phải đối mặt với bất kỳ vấn đề gì, cũng không thể biện minh cho bạo lực và vô luật pháp". Đây là tuyên bố đầu tiên của ông Mubarak kể từ khi làn sóng biểu tình phản đối chính phủ bắt đầu khiến ít nhất 26 người chết và hàng trăm người bị thương, BBC cho biết. Theo Bộ Nội vụ Ai Cập, mới chỉ có 6 người thiệt mạng trong các cuộc đụng độ. .....  Mohamed ElBaradei cho rằng các cuộc phản đối nên tranh đua với các cuộc biểu tình ở Tunisia mang kết quả lật đổ tổng thống.

 

3-Cách Mạng tại Lybia năm 2011 

-Khởi sự của cuộc Cách Mạng  Lybia : Một cuộc biểu tình chống chính phủ ở thủ đô Tripoli của Libya năm 2011 đã bị hỏa lực loại hạng nặng của chính phủ tấn công.

·       Khoảng 1.000 người biểu tình được cho là đã bị giết hại bởi quân đội của ông Gaddafi vốn cố gắng dập tắt các cuộc nổi dậy. 

"Chính phủ Libya liên tiếp vi phạm các quyền con người, có các hành động dã man đối với nhân dân, và các mối đe dọa quá đáng của chính phủ này đang gây ra sự lên án mạnh mẽ và rộng rãi của cộng đồng quốc tế," Tổng thống Obama phát biểu trong một tuyên bố vào cuối ngày thứ Sáu.
·         Trẻ em Libya ăn mừng ở Tripoli, Libya, 21/10/2011

"Những biện pháp trừng phạt do đó có mục tiêu nhắm vào chính phủ Gaddafi, trong khi bảo vệ các tài sản vốn thuộc về nhân dân Libya."
 
Phần lớn miền đông của đất nước đã nằm trong tay của những người biểu tình chống Gaddafi cũng như của nhiều đơn vị quân đội Libya phản chiến, nay chống lại nhà lãnh đạo đang níu giữ quyền lực này.
 

Tổng thư ký Ban Ki-moon cho biết chính phủ Libya đã tiến hành các hành vi vi phạm quyền con người.
 
Đặc biệt, ở Li-bi, phe đối lập đã thành lập "Hội đồng Quốc gia lâm thời" và chiến sự giữa lực lượng chống đối với quân đội Chính phủ của Tổng thống Ca-đa-phi diễn ra ác liệt ở nhiều thành phố. Tình hình càng trầm trọng, khi ngày 19-3-2011, dưới danh nghĩa thực thi Nghị quyết 1973 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ) về thiết lập "vùng cấm bay" trên toàn lãnh thổ Li-bi, liên quân do Anh, Pháp, Mỹ đứng đầu, đã tiến hành chiến dịch quân sự "Bình minh Odyssey" không kích nhiều mục tiêu trên đất Li-bi, làm nhiều người dân chết và bị thương. Làn sóng biểu tình chống Chính phủ cũng nổ ra ở Gióc-đa-ni, Y-ê-men, Ả-rập Xê-út, I-ran, Xy-ri, Ô-man, Gi-bu-ti, Ba-ranh và nhiều nước khác trong khu vực. 
Kết thúc :Sau 8 tháng nội chiến tại Libya cùng với sự can thiệp quân sự của NATO, cuối cùng Muammar Gaddafi và phe nhóm của mình đã bị dồn ép về thành phố ven biển Sirte, quê hương của lãnh tụ này. Tại đây, Gaddafi và những người thân cận phải di chuyển giữa các ngôi nhà bỏ hoang để tránh đạn pháo của phiến quân bao vây thành phố này.[xiv]
Sáng 20/10/2011, con trai của Gaddafi là Mutassim (phụ trách phòng thủ Sirte) tổ chức một đoàn xe 50 chiếc được vũ trang mạnh, rút khỏi thành phố. Theo RT và HRW, trong lúc đoàn xe (chở 250 người, gồm cả thường dân ủng hộ Gaddafi) tháo chạy, một quả tên lửa bắn từ máy bay không người lái của NATO đánh trúng một chiếc xe trong đoàn, nổ tung ngay cạnh chiếc xe chở Gaddafi. Đoàn xe chọn đi theo một con đường khác mong được an toàn hơn nhưng ngay lập tức vấp phải một nhóm dân quân Misrata rồi sau đó là một trận bom của chiến đấu cơ NATO, khiến hàng chục chiến binh của Gaddafi bỏ mạng.
Những vụ hành quyết chóng vánh:
Đội nghiên cứu của HRW đếm (và chụp ảnh) được 103 xác người ủng hộ Gaddafi tại hiện trường vụ bỏ chạy. HRW ước tính một nửa trong số này chết vì bom NATO. Số còn lại chết vì đấu súng sau đó hoặc bị hành quyết. Số xác chết này còn nằm lại ở hiện trường trận đánh cuối cùng của Gaddafi cho đến ngày 25/10/2011, khi các tình nguyện viên thành phố Sirte thu gom lại và chôn trong mộ tập thể.

HRW đã điều tra và phân tích các đoạn video liên quan, từ đó kết luận, trong số 103 người này, ít nhất một vài người đàn ông đã bị hành quyết sau khi bị bắt giữ.
Theo luật quốc tế, việc giết hại tù binh là tội ác chiến tranh. HRW cho biết họ đã hối thúc nhà chức trách Libya (cả khối dân sự và quân sự) điều tra các tội ác chiến tranh và các vi phạm khác đối với luật nhân đạo quốc tế, liên quan đến cái chết của ông Gaddafi và những người ủng hộ ông này. Đài RT cho biết, cả Liên Hợp Quốc và Tòa án Hình sự Quốc tế cũng đã kêu gọi Libya điều tra cái chết của ông Gaddafi. Riêng Tòa án Hình sự Quốc tế đã tuyên bố có các dấu hiệu lớn cho thấy Gaddafi bị giết trong lúc bị giam giữ nhưng tổ chức này để cho Libya tự mình tiến hành điều tra.

Hình ảnh được AFP ghi lại từ điện thoại di động cho thấy cảnh ông Gaddafi đã bị thương hoặc tử vong.
 


Nhận định của Long Điền: Cuộc Cách Mạng khởi sự là Bất Bạo Động, kế tiếp sau khi bị chánh quyền của  tổng thống Gaddafi đàn áp đẩm máu bằng máy bay và trọng pháo làm tử vong trên 1000 thường dân thì tình hình trở nên bạo loạn, Gaddafi càng đàn áp dữ tợn tình hình lại càng xấu đi. Liên Hiệp Quốc trong đó có Hoa Kỳ và khối Tây Phương nhập cuộc đứng về phiá người dân biểu tình. Liên Hiệp Quốc thiết lập vùng cấm bay để cứu trợ dân lành, cho phép Khối Tây Phương và Hoa Kỳ dội bom vào lực lượng chính phủ Gaddafi khiến cho cán cân lực lượng nghiêng về phiá dân chúng. Gaddafi và đồng bọn bỏ trốn, bị bắt và bị lực lượng dân quân biểu tình hạ sát nhiều người trong đó có Gaddafi và con trai. Đây là lần đầu tiên Liên Hiệp Quốc công khai ra mặt ủng hộ phe biểu tình, khi mà thường dân bị đàn áp dã man, cho phép Hoa Kỳ và Tây Phương thả bom lực lượng chính phủ của Gaddafi. Tình hình Cách Mạng biến đổi từ ôn hoà bất bạo động, sau khi bị đàn áp dã man chuyển sang bạo động có vũ trang vẫn được Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ và Khối Tây Phương ủng hộ vì cho đó là quyền tự vệ chính đáng. Đáng tiếc là lực lượng biểu tình sau khi làm chủ tình hình đã trả thù và sát hại Gaddafi và đồng bọn thay vì đưa họ ra toà án xét xử công bằng.
-Các cuộc cách mạng trong vùng Trung Đông và Bắc Phi ảnh hưởng đến nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam: Run sợ trước các cuộc CMBBĐ xảy ra tại Trung Đông và Bắc Phi, CSVN đã cho báo động, phân tích học tập, nghiên cứu nguyên nhân xảy ra các cuộc Cách Mạng, sau đây là những nhận định của báo chí trong nước trước diển biến Trung Đông và Bắc Phi:
 -“MỘT SỐ NÉT VỀ TÌNH HÌNH Ở CÁC NƯỚC BẮC PHI”:
laocai.gov.vn/.../Mot%20so%20net%20ve%20tinh%2..  
Từ đầu năm 2011, tình hình Bắc Phi luôn là đề tài thời sự nóng hổi trên
hệ thống truyền thông châu Phi, châu Âu và thế giới.
Sau gần 1 tháng lánh nạn của Tổng thống Ben Ali, chấm dứt 23 năm độc
quyền cai trị tại xứ này.
Từ cuộc biểu tình ồ ạt ở Tuynidi, đã nhanh chóng lan sang nước láng
giềng Ai Cập, Yemen như một “vệt dầu loang”.
"Thành công" bất ngờ của những người biểu tình ở Tuynidi đã trở thành
chất xúc tác làm bùng phát phong trào phản kháng, đòi lật đổ chính
phủ tại các nước lân cận có hoàn cảnh tương tự, nhất là Cộng hòa Ai Cập.
A . TÌNH HÌNH CÁC NƯỚC BẮC PHI
I. TÌNH HÌNH  TUYNIDI (Tunisie)
1. Vài nét về Tuynidi
- Tuynidi là một quốc gia Hồi giáo, diện tích 164,1 nghìn km2. Có 1.424 km
 biên giới với Angiêri, LiBi và 1.148 km nằm ven bờ biển Địa Trung Hải.
 - Dân số 10 triệu người, đa số theo đạo Hồi, dân thành thị 61%.
Dân tộc: chủ yếu 1à Arập 98 % . Thủ đô : Tuynis có 1.674.000 nghìn dân.
- Lâu nay Tuynidi vẫn được coi là một nước ổn định về chính trị, kinh tế
phát triển đều đặn, với tỷ lệ khá cao, từ 3% đến 6%/năm. Nông
nghiệp chiếm 12,4% GDP và 21,6% lao động. Công nghiệp 28,5% GDP
và 34,4% lao động. Thương mại - tài chính - dịch vụ 46,2% GDP và
 42,3% lao động.
GDP đầu người, khoảng 8.000 USD; đơn vị tiền tệ là đồng đina.
Tỉ giá hối đoái: 1 USD = 1,44 đina.
- Tuynidi có trữ lượng dầu mỏ 1,7 tỷ thùng và là ngành kinh tế chủ đạo
của nước này. Tuynidi là một dân tộc trẻ. Tuổi trung bình của dân cư là
27. Thanh niên Tuynidi có truyền thống ham học. Nền đại học Tuynidi
được xếp vào hàng đầu lục địa này.
- Ngày Quốc khánh là 20/3/1957.Tuynidi là thành viên Liên hợp
 quốc từ 12/12/1956. Quân đội của Tuynidi có 27.000 binh sĩ, nhưng bộ
máy cảnh sát đông đảo trở thành “lũ kiêu binh” giàu sụ, mà người dân
Tuynidi đã ví họ là “bầy chó giữ nhà cho bọn tỷ phú”, bị toàn dân khinh
bỉ và căm ghét.
- Trong 5 cuộc bầu cử tổng thống, hoàn toàn là hình thức, vì không có
người khác tham gia tranh cử, nên ông Ben Ali luôn giành được gần 100%
 số phiếu. Bầu cử lần cuối, năm 2009, được 89%. Ben Ali đã dựng lên ở
 đất nước Tuynidi một chế độ tiêu biểu về Nhà nước cảnh sát trị, bỏ tù
 phần lớn những người chống đối không có xét xử. Hiện nay số người bị
tù lên đến trên 10 ngàn người. Phần lớn họ là trí thức, văn nghệ sỹ,
luật sư, nhà báo, sinh viên, nhà buôn, nhà kinh doanh loại trung lưu,
dân cư mạng bloggers.
- Lâu nay, mặc dù Tuynidi có đấu tranh âm ỉ chống nhà nước cảnh sát,
nhưng tình hình có vẻ yên ổn vì kinh tế vẫn phát triển, buôn bán sầm
uất, xuất nhập khẩu gia tăng, đời sống vật chất được nâng lên, nền giáo
 dục được xếp vào loại ưu tú ở châu Phi.
2. Diễn biến tình hình Tuynidi
(1) Cuộc biểu tình ở Tuynisia được khởi đầu từ vụ tự thiêu của anh
thanh niên Mohamed Bu-oa-đi-đi, 26 tuổi, ở Sidi Buzid, một thành phố
cách thủ đô Tunis 265 km. Anh thanh niên này tuy có bằng thạc sĩ,
nhưng không tìm được việc làm, phải đi bán trái cây dạo và bị công an
 tịch thu xe bán trái cây do không có giấy phép hành nghề và không có
 tiền để hối lộ (đây không phải là lần đầu anh bị chúng vòi tiền). Bị dồn
vào đường cùng, ấp ủ thù hận từ lâu vì quá uất ức, ngày 17/12/2010 anh
Bu-oa-đi-đi lặng lẽ đổ can xăng lên người, tự thiêu.
Trong lúc ngọn lửa đang bùng cháy, anh ta hét lớn “Chấm dứt nghèo đói,
chấm dứt thất nghiệp!” Anh bị bỏng rất nặng và bị chết ngày 4/01/2011.
+ Ngày 8/01/2011, cũng tại thành phố Sidi Bouzid, một người bán hàng
rong khác tên là Moncef Ben, 56 tuổi cũng đã tự thiêu. Cái chết bi thảm
của anh Bu-oa-đi-đi được truyền đi, như đổ dầu vào ngọn lửa uất hận
đối với chế độ cảnh sát và gia đình trị âm ỉ từ lâu ở Tuynidi. Sau đó đã
có 4 người thực hiện các vụ tự thiêu bắt chước hành động của một
thanh niên 26 tuổi nói trên.
+ Tự thiêu của những người này đã nói lên nỗi thất vọng cùng cực của
 tầng lớp nghèo khổ trong xã hội và đó cũng là ngọn đuốc đốt lên ngọn lửa
 phẫn nộ của dân chúng, châm ngòi cho các vụ bạo loạn, đòi lật đổ ông
Ben Ali.
(2) Sau ngày 3/01, bất chấp lệnh thiết quân luật, hàng chục ngàn dân
chúng các nơi đổ về thủ đô Tunis. Mọi người đều có chung một lời đáp:
chúng tôi là nhân dân, tay không vũ khí, chỉ thiết quân luật khi có quân
địch, có kẻ thù. Chúng tôi là nhân dân, đất nước này là của chúng tôi”;
 “Tự do hay chết! Đả đảo chế độ cảnh sát gia đình trị! Tự do truyền
thông, tự do báo chí muôn năm! Tinh thần bất khuất  Mohamed
Bouazizi muôn năm".
(3) Trước hành động biểu tình của dân chúng, Tổng thống Ben Ali ra lệnh
cho cảnh sát thẳng tay đàn áp, lệnh cho cảnh sát bắn vào bất cứ người
 biểu tình nào không tuân lệnh. Hậu quả, gần 70 người thiệt mạng.
+ Ngoài ra, Tổng thống Ben Ali còn ra lệnh đóng cửa các cơ quan truyền
 thông và các trang web. Các blogger bị chính phủ tấn công vào tài
 khoản, lấy cắp mật mã, xóa thông tin, nhằm ngăn chặn những thông tin,
 hình ảnh về cuộc nổi dậy của người dân ở Tuynidi đến với thế giới bên ngoài.
(4) Ngày 6-1-2011, số người xuống đường biểu tình đông gấp 3 lần ngày
3/1/2011, với số lượng khẩu hiệu nhiều hơn, to hơn và lần này họ đề thêm
 yêu cầu: "Ben- A1i phải ra đi! Ben- Ali phải đền nợ máu! Ben- Ali và
Abdalla Kala, bộ trưởng Công an là sát nhân "
(5) Trước khí thế biểu tình hừng hực của người dân, ngày ll/l/2011,
Tổng thống Ben-A-li xuống thang và nhượng bộ, ông ra lệnh ngừng
đàn áp, hứa sẽ không ra ứng cử tổng thống vào ngày 20-4-2011,
hứa trả tự do cho tù chính trị, tôn trọng tự do báo chí, để tư nhân
 xuất bản sách báo tự do.
Ngày 13/1/2011, Tổng thống Ben-Ali ban bố tình trạng khẩn cấp và
giới nghiêm trên phạm vi toàn quốc, tuyên bố giải tán chính phủ để
tổ chức bầu cử trong thời gian 6 tháng tới.
(6) Trước sức ép của quần chúng, bỏ lại một đất nước hỗn loạn
sau 23 năm cầm quyền, ngày 14-1-2011, Ben Ali cùng gia đình lập tức
 lên trực thăng tẩu thoát sang Malta. Những người thân tín khác của
Ben Ali cố tìm cách ra nước ngoài qua các chuyến bay dân sự nhưng ý
định không thành vì quân đội đã chiếm giữ các phi trường quốc tế.
Đáng chú ý là, lúc đầu Ben-Ali định cho máy bay hạ cánh ở Pháp,
nhưng bị Pháp từ chối. Sau đó định ghé thành phố Sardaigna của
 I-ta-li-a để tiếp thêm nhiên liệu nhưng chính phủ I-ta-li-a không
chấp nhận. Cuối cùng, Tổng thống Ben-A-li, 74 tuổi phải bay sang A-rập
Sau-di lánh nạn.
(7) Ngày 15-1, Tòa án Hiến pháp Tuynidi quyết định bãi nhiệm Tổng thống
 Ben Ali. Theo điều 57 Hiến pháp, Chủ tịch quốc Mê-ba-da đã tuyên thệ
nhậm chức Tổng thống tạm quyền của Tuynidi. ông Mê-ba-đa đã chỉ định
 M.Gan- nu-chi làm Thủ tướng mới và yêu cầu thành lập một chính phủ
liên hiệp đoàn kết dân tộc, nhằm sớm ổn định tình hình trong nước.
Cùng ngày, không phận của Tuynidi đã được mở cửa trở lại cho các máy
 bay dân dụng, các sân bay lớn nhất của Tunidi trở lại làm việc bình thường.
(8) Ngày 15-1, tù nhân đã đốt nhà giam để trốn thoát, hậu quả làm
42 người thiệt mạng và nhiều người bị thương.
(9) Ngày 16-1, thủ lĩnh tổ chức Al-Qaeda ở Bắc Phi Hồi giáo tuyên bố ủng
 hộ cuộc biểu tình lật đổ Tổng thống Ben-A-li ở Tuynidi, kêu gọi người dân
 Tuynidi gửi con em sang các trại huấn luyện của Al-Qaeda.
(10) Cùng thời gian ở Tuynidi có biểu tình, trên các quốc gia ở Châu Âu,
 nơi có người Tuynidi cư ngụ như Đức, Itlia, Pháp đã diễn ra nhiều cuộc
 biểu tình với các biểu ngữ hãy cút đi Ben Ali, đả đảo độc tài..v.v.."
(11) Ngày 21/1/2011, Thủ tướng M . Gan-nu- chi đã quyết định  bồi
 thường cho những gia đình nạn nhân bị chết dưới chế độ của Tổng thống
 bị lật đổ Ben-A-li và ra lệnh bắt tất cả những nhân vật thân cận của gia
 đình tổng thống Ben-A-li.
Đến nay, 33 thành viên trong số 200 nhân vật của dòng họ Ben-A-li đã
bị bắt giữ, trong đó có cả cháu của ông Ben-A-li. Ngoài ra Thủ tướng mới
 còn đề nghị với các chính phủ tiến hành phong tỏa tài sản của họ giúp
 truy nã tất cả những lành viên khác của gia đình ông Ben-A-li ở nước
ngoài. Hiện nay Ben-A-li và vợ là đối tượng truy nã quốc tế theo yêu cầu
của Chính phủ lâm thời Tuynidi, nhằm dẫn độ về Tuynidi để xét xử.
Hậu quả: Sau 5 tuần khủng hoảng chính trị tại Tuynidi, kể từ ngày
17-12- 2010 đã khiến hơn 112 người chết và hàng nghìn người bị thương;
 mặc dù tình hình chưa phải là yên ổn, nhưng Tuynidi đã thành công lật đổ chế độ cảnh sát trị, gia đình trị trong cuộc “Cách mạng Hoa Nhài”.
Sở dĩ cuộc nổi dậy ở Tuynidi được gọi là "Cách mạng Hoa Nhài" là vì
Hoa Nhài được chọn là Quốc hoa, thường được kết thành vòng hoa
trang trí các buổi lễ dân tộc, tôn giáo, trong các nhà thờ Hồi giáo.
Đây là cuộc Cách mạng dân chủ đầu tiên diễn ra trong hòa bình,
không có bạo động, ở một.nước Ả-rập và Hồi giáo, lại thắng lợi khá
gọn gàng trong vòng 29 ngày, chưa đầy 1 tháng.
 Làm cho các chế độ độc đoán ở châu Phi và Trung Đông đang giật
 mình lo sợ.
II. TÌNH HÌNH AI CẬP
1 Vài nét về Cộng hòa Ai Cập
- Ai Cập là một đất nước rộng lớn, gồm hai phần lãnh thổ ngăn cách bởi
kênh đào Xuy-ê, diện tích 1.002.000 km2, nhưng 90% đất đai là sa mạc.
- Ai Cập có vị trí chiến lược, là một quốc gia liên lục địa, cầu nối giữa
Châu Phi với Châu Á và Châu âu. Ai Cập có hệ thống đường thuỷ đặc
biệt quan trọng, nhất là kênh đào Xuy-ê nối giữa Địa Trung Hải với Ấn Độ
 Dương thông qua Biển Đỏ.
- Dân số 83 triệu người, 90% theo Đạo Hồi và đa số còn lại theo Thiên
chúa giáo. Thủ đô Cai Rô là một thủ đô lớn trên thế giới, có 13 triệu dân,
 đây cũng là một trong những thành phố cổ xưa nhất và là một thủ đô lâu
 đời nhất trên thế giới, với quang cảnh hùng vĩ, tráng lệ, là trung tâm chính
 trị, kinh tế và thương mại của cả khu vực Trung Đông và là thành phố lớn nhất của Ai Cập và Ả Rập.
Thu nhập GDP đầu người đạt 5.800 USD, đứng thứ 133 trên thế giới.
 - Quân đội Ai Cập có khoảng 450.000 người là lực lượng quân sự mạnh
nhất Châu Phi, và là một trong những lực lượng lớn nhất vùng Trung Đông.
 Quân đội Ai Cập có nhiều kinh nghiệm chiến trường so với quân đội các
nước khác trong vùng. Nghĩa vụ quân sự là bắt buộc đối với đàn ông
Ai Cập từ tuổi 19. Những sinh viên có thể lùi thời hạn nhập ngũ tới tuổi
28. Thời gian nghĩa vụ phụ thuộc vào mức độ giáo dục của từng người.
Ai Cập hợp tác trong nhiều lĩnh vực chiến lược với quân đội Hoa Kỳ,
trong đó có hợp tác về hiện đại hóa trang bị vũ khí và huấn luyện chiến đấu.
- Chỉ huy tối cao là Tổng thống Mubarak, trong thời chiến ông là Nguyên
 soái quân đội Đô đốc hải quân, Nguyên soái các lực lượng Phòng không
và Không quân Trong thời bình. Là một phi công do Liên Xô cũ đào tạo,
 Mubarak từng là Tổng tư lệnh không quân Ai Cập trong cuộc chiến tranh
 Trung Đông 1973. Những thành quả ban đầu của không quân trong
 những trận chiến chống Israel đã biến Mubarak thành một anh hùng
dân tộc.
 Năm 1975 ông trở thành Phó tổng thống, năm 1981 trở thành Tổng thống
 cho đến nay.
- Cuộc bầu cử tổng thống gần đây nhất, được tổ chức vào tháng
9/2005, ông Mubarak thắng cử nhiệm kỳ thứ 5 liên tiếp kể từ năm 1981.
 Liên tục 4 nhiệm kỳ, Mubarak đều đắc cử tổng thống trong những cuộc
bầu cử chỉ mang tính hình thức. Lần đắc cử thứ 5 năm 2005 của Mubarak
 là cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên nhưng bị chỉ trích khắp nơi là trò mị dân.
- Mubarak chưa bao giờ chọn ai làm phó tổng thống kể cả nhiều lần bị
đột quy và giải phẫu trong những năm gần đây. Chính quyền Ai Cập bị
nhiều nước coi là độc tài quân sự. Gần đây Mubarak đã soạn thảo song
kế hoạch chuẩn bị cho con trai ông là Gamal Mubaral 46 tuổi làm người kế vị.
2. Diễn biến tình hình Ai Cập
Sự kiện Tổng thống Ben An của Tuynida bị lật đổ đã làm thay đổi suy
nghĩ của dân chúng nhiều nước trong khu vực trong đó có Ai Cập,
diễn biến tình hình ở Ai Cập như sau:
(1)         Như cánh đồng đã bắt lửa, được tiếp sức từ "cách mạng Hoa Nhài"
ở Tunisia, ngày 24-1-2011, khoảng 15.000 người dân xuống đường
biểu tình tại Thủ đô Cũng đòi phế truất Tổng thống Mubarak và kêu gọi
tiến hành cải cách; đòi chấm dứt tình trạng khẩn cấp vốn kéo dài hàng
thập kỷ; đòi tăng lương tối thiểu và chấm dứt rình trạng giá thực phẩm
 tăng vọt như tên lửa.
(2)         Ngày 25/1 đã có 16 thành phố Ai Cập bùng nổ các cuộc biểu tình và
bạo động. Những người biểu tình coi đây là "ngày cách mạng chống lại
 bạo lực, nghèo đói, chống tham nhũng và thất nghiệp".
(3)         Trước tình trạng trên, ngày 26/1 Tổng thống Mubarak điều động 4 sư
 đoàn thiết giáp đến Cai Rô, đặt họ trong tình trạng khẩn cấp.
(4)         Ngày 27/1, các cuộc biểu tình lớn chưa từng có diễn ra trên toàn
đất nước Ai Cập nhằm chống lại sự cầm quyền độc tài của Tổng thống
 Hosni Mubarak. Đây là cuộc biểu tình lớn nhất diễn ra ở Ai Cập kể từ năm
 1977 đến nay, cảnh sát Ai Cập đã bắt 1.000 người. Bạo lực đã xảy ra sau
 hơn một tuần nổ ra các cuộc biểu tình chống đối liên tục, dẫn tới việc 300
 người bị chết.
Trước tình hình trên, Bộ Nội vụ tuyên bố cấm tụ tập đông người
và sẽ truy tố bất cứ ai 'xuống đường chống chính phủ, chặn các
trang web để người biểu tình không thể dùng nó làm phương tiện
 liên lạc kêu gọi biểu tình. Các mạng điện thoại di động thì bị
gián đoạn, dịch vụ nhắn tin thì bị chặn. Việc tác nghiệp của
phóng viên quốc tế cũng bị phong tỏa.
(5)         Sau những cuộc bạo loạn xảy ra tại Cairo, vợ chồng Tổng thống
Mubarak, con trai (là người kế nhiệm tương lai của Mubarak) và con
 gái với rất nhiều hành lý tài sản đã bỏ chạy sang Lon don .
(6)         Ngày 30-1-2011, các tù nhân thuộc 4 nhà tù được sự giúp đỡ của các
 băng đảng vũ trang đã phá ngục, giúp hàng trăm tù nhân là các tay súng
 Hồi giáo cực đoan và hàng trăm tù thường phạm khác vượt ngục.
 Cùng ngày trước làn sóng phản đối chính phủ dâng cao toàn quốc buộc
 Tổng thống Mubarak sa thải nội các.
(7)         Không chỉ ở trong nước, ngày 29/1 Khoảng một 1.000 người Ai Cập
 ở Mỹ biểu tình trước Đại sứ quán Ai Cập ở thủ đô Washington với những
 khẩu hiệu yêu cầu Tổng thống Mubarak từ chức. Trong khi đó, rất đông
 những người khác tập trung trước trụ sở Liên hợp quốc, cũng như lãnh sự
 quán Ai Cập tại thành phố New York, nơi có đông người Ai Cập sinh sống.
(8)         Trước tình hình diễn biến phức tạp tại Ai Cập, ngày 30/1, Tổng Thư ký
 Liên Hợp Quốc Ban Ki-moơn đã kêu gọi các cơ quan chức năng tại Ai Cập
cần kiềm chế trong việc xử lý các cuộc biểu tình đang lan rộng tại nước này.
(9)         Ngày 1-2, ông Mubarak lên truyền hình cam kết nói: "Tôi sẽ không ra
 tranh cử vào tháng Chín tới đây, tôi sẽ đảm bảo một cuộc chuyển giao
quyền lực hòa bình, tôi sẽ không bao giờ chạy trốn khỏi đất nước này,
 tôi sẽ chết trên mảnh đất này... Tôi không muốn chứng kiến cảnh người
 dân Ai Cập đánh nhau và không bao giờ có ý định để con trai là Gamal
kế vị mình".
Thông điệp ngắn vài chục phút của ông Mubarak được truyền đi
trực tiếp trong nước, tuy nhiên phát biểu của tổng thống Ai Cập
 chỉ làm tình hình thêm rối ren, hàng chục nghìn người biểu tình
tập hợp ở trung tâm thủ đô Ai Cập đòi ông từ chức ngay lập tức.
(10)     Ông EIBaradei (Cựu Tổng Giám đốc Cơ quan Năng lượng nguyên tử
 thế giới) được các nhóm đối lập ở Ai Cập yêu cầu đại diện điều đình
 với Chính quyền về việc thành lập một chính phủ liên hiệp quốc gia.
Ông ElBaradei nói với đám đông: "Các bạn đã giành lại quyền của
 mình và những gì chúng ta đã bắt đầu không thể thay đổi được.
 Tôi kính cẩn cúi chào người dân Ai Cập..."
(11)     Các nước và vùng lãnh thổ tiếp tục tăng cường nỗ lực đưa công dân
ra khỏi Ai Cập ở những khu vực biểu tình chưa có dấu hiệu dừng lại:
 480 người Trung Quốc, 500 người Đài Loan, khoảng 600 du khách Nhật,
 hơn 2.600 người Mỹ... phần đông là khách du lịch
Du lịch là một trong những nguồn mang lại ngoại tệ lớn nhất
cho Ai Cập chiếm hơn 11% GDP. Năm 2009, khoảng 12,5 triệu
du khách đã tới nước này, mang lại nguồn thu 10,8. tỉ USD.
(12)     Nạn cướp bóc xẩy ra khắp nơi, đặc biệt là cướp bóc các bảo tàng
 quốc gia diễn ra nghiêm trọng.
Ai cập có 24 bảo tàng quốc gia. Khi xảy ra biểu tình, bọn trộm cắp đã
chặt 2 đầu của hai xác ướp là cha mẹ của một hoàng hậu, ông bà cố của
 vua Tu-ta-kha-môn, đồng thời đập bể làm hư hỏng nhiều thứ khác trong
 viện bảo tàng này, nơi tập trung nhiều nhất thế giới những cổ vật của
Ai Cập hầu hết những cổ vật cách nay khoảng trên 5.000 năm.
Được biết, trong viện bảo tàng có 120.000 cổ vật, 12 xác ướp vua chúa,
một mặt nạ thần chết được làm bằng 11 kg vàng. Ngoài ra, bọn cướp vẫn
đào bới ở gần chân Kim tự tháp để tìm kiếm cổ vật ở dưới các mồ mả và
 các khu khảo cổ ở Ai Cập. Đó là một sự mất mát của cả nhân loại nếu
những cổ vật ấy bị mất tích.
(13)     Ngày 7-2-2011, nội các mới của Ai Cập họp việc đầu tiên là thông
qua quyết định tăng 15 % lương và trợ cấp hàng tháng cho 6
triệu người hưởng lương. Quyết định trên sẽ có hiệu lực từ tháng
4/2011. Kho bạc nhà nước dành 6,5 tỷ EGP (khoảng 1,1 tỷ USD) để thực
 hiện quyết định này'
(14)     Trước làn sóng biểu tình của hơn 30 nghìn người dân Ai Cập đòi ông
 Mubrak phải từ chức, 23 giờ ngày 11/2/2011 ông Mubarak đã tuyên bố từ
 chức bàn giao lại chính quyền cho quân đội điều hành.
Ngày 13/02/2011, giải tán quốc hội, đình chỉ hiến pháp, thành lập chính
 quyền dân sự chuẩn bị cho bầu cử.
 (l5) Chính phủ Ai Cập đã mở cuộc điều tra đối với một số bộ trưởng,
trong đó cựu Bộ trưởng Nhà ở Ahmed el-Maghrabi bị cáo buộc về lãng phí
 tiền nhà nước, chiếm đất công và làm giàu bất chính. Tỷ phú hmed
Ezz và 5 bộ trưởng khác đều bị cấm xuất cảnh và bị phong tỏa tài khoản
ngân hàng.
III. DIỄN BIỂN Ở MỘT SÔ NƯỚC KHÁC
1.   Tại Yemen, quốc gia còn nghèo hơn Ai Cập, thu nhập bình quân chỉ
 bằng một nửa và dân số chừng 34 triệu người, Tổng thống nước Yemen
 đang bị phản đối đòi từ chức sau gần 32 năm tại vị. Những người biểu
 tình đòi cải thiện điều kiện sống, giảm khoảng cách giàu - nghèo và
đẩy mạnh cuộc chiến chống tham nhũng.
Yemen là nước A rập thứ hai nổ ra biểu tình dưới ảnh hưởng cuộc nổi dậy
của người dân Tuynidi. Cuộc "cách mạng Hoa Nhài", đã tạo hứng khởi
cho các lực lượng đòi dân chủ và dân sinh tại nhiều nước A rập.
Chính quyền Yemen đã tìm cách xoa dịu tình hình bằng cách thả tự do
 cho 36 tù chính trị nhưng đồng thời cũng tăng cường lực tướng quân đội
 và công an nhằm đối phó với phe biểu tình.
2.   Tại Libya, có 6,5 triệu dân, thu nhập trung bình cao 12.000 USD,
Libya đang phải chịu sức ép từ biểu tình theo kiểu Cách mạng Hoa Nhài
 ở Tunisia, Ai Cập. Đại tá Muammar Gadaffl 68 tuổi, 41 năm cầm quyền
đang gặp sự phản đối của người biểu tình.
Việt Nam có hơn 10 ngàn người đang lao động, làm việc tại Libya
3.   Tại Algeria, Nước Algeria láng giềng vốn lộn xộn, mất ổn định
 hơn Tunisia nhiều, đang lún sâu vào khủng hoảng chính trị - kinh tế.
Tại Algeria, 100 thanh niên ở thị trấn Boukhadra (tỉnh Tébessa) đã biểu
 tình sau khi ông Mohsen Bouterfif 37 tuổi chết vì tự thiêu. Trước khi tự
 thiêu, ông gặp trưởng thị trấn xin cấp việc làm và nhà ở nhưng bị từ chối.
 Trưởng thị trấn đã bị sa thải. Đây là trường hợp thất nghiệp tự thiêu
 thứ ba ở Algeria trong phong trào biểu tình bắt đầu từ đầu tháng 1 để
phản đối thất nghiệp và giá cả tăng.
 Đây cũng là một thách thức rất lớn đối với lãnh tụ Abdelaziz Bouteflica
73 tuổi
4.   Tại Morocco, có 32 triệu dân, thu nhập bình quân gần 3.000 USD.
Tầng lớp cầm quyền, gồm cả những người thân cận với hoàng gia
 đang bị dân chúng biểu tình tố cáo là tham nhũng.
5.   Tại Jordan, nước vẫn theo chế độ quân chủ, cuối tuần qua hơn 3.000
 người tập trung trước trụ sở Quốc hội yêu cầu thủ tướng giải tán chính
 phủ và từ chức. Để tránh bạo động, chính phủ Jordan đã chi 225 triệu
 USD trợ giá nhiên liệu và thực phẩm. Quốc vương Jordan đã phải lập lực
 lượng đặc nhiệm bảo vệ tư dinh. Xe bọc thép triển khai ở các thành
 phố lớn.
B. NGUYÊN NHÂN
1. Nguyên nhân khách quan.
Một là, Khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008-2009 đã tác động vào các
nước Bắc Phi, làm cho giá dầu lửa lúc lên rất cao, lúc xuống rất thấp,
 ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế các nước này. Khủng hoảng kinh tế thế
 giới khiến mô tình kinh tế của Tuynidi lung lay. Tuynidi không đủ khả
năng tạo ra đủ việc làm cho người lao động.
Hai là, Thời tiết khắc nghiệt, hạn hán kéo dài, sa mạc hoá làm cho các
nước Bắc Phi lâm vào cảnh khó khăn. Khói phun lên từ các nhà máy
 điện và xí nghiệp ở Bắc Mỹ và châu Âu đã làm rối loạn các hệ thống thời
 tiết gây ra những đợt hạn hán nghiêm trọng ở các nước Bắc Phi và làm
suy sụp các quốc gia này. Trong vòng 40 năm qua, lượng mưa ở vùng
này đã giảm xuống 50 % .
Ba là, Giá nông sản thế giới gần đây liên tục tăng, làm cho đời sống
người dân các nước Bắc Phi càng trở nên vô cùng cực khổ. Năm 2010,
dịch sâu bọ hoành hành phá hoại mùa màng. Ai Cập cho biết: 50% lượng
 bột mì bị sâu bọ côn trùng phá hoại, sản lượng ngũ cốc giảm sút.
Bốn là, do sự tác động rất mạnh, có chủ trương của Mỹ và phương Tây
 thực hiện “dân chủ, nhân quyền”, (sẵn sàng quay mặt với các tổng thống
 Tuynidi, Ai Cập, mặc dù trước đây họ là đồng minh thân cận) đối với các
 nước ở khu vực này.
Năm là, lực lượng Hồi giáo tác động, tập hợp lực lượng, đang có điều
chỉnh thích nghi với việc tham gia chính quyền (Lực lượng Những người
anh em Hồi giáo).
2. Nguyên nhân chủ quan.
Một là, tình hình kinh tế- xã hội khó khăn, phức tạp, giá cả leo
thang, đời sống người dân cực khổ.
- Nhưng mấy năm gần đây, tăng trưởng của Tuynidi liên tục sụt giảm,
ừ 6,3% năm 2007 còn 3,8% năm 2009, xuất khẩu giảm 17%. Ngoài ra,
 chính sách phát triển kinh tế ở Tuynidi không đồng đều, ưu tiên phát triển
 các vùng du lịch ở Địa Trung Hải, nhưng lại sao nhãng ở những vùng sâu,
 vùng xa; khoảng cách giàu nghèo quá lớn đã thổi bùng cơn thịnh nộ về bất
 công xã hội.
- Ai Cập cũng có nhiều vấn đề xã hội và chính trị giống như Tuynidi –
 trong đó có tình trạng giá cả leo thang, khiến đời sống của người dân
 ngày càng khổ cực.
- Tuy có nền văn minh rực rỡ 5.000 năm, nhưng dân trí ở Ai Cập lại thấp
hơn dân trí Tunisia. Hiện nay Ai Cập còn rất nhiều người mù chữ và số
 người sử dụng intemet thấp hơn nhiều nước trong khu vực.
- Giống như người dân Tuynidi, người Ai Cập kêu ca về giá cả tăng cao,
 tình trạng thiếu việc làm. Bộ Nông nghiệp Ai Cập năm ngoái cho hay,
khoảng 40% tổng sản lượng lương thực thực phẩm của nước này, trong đó
 có 60% bột mì - loại lương thực chủ yếu - được nhập khẩu. Ai Cập
từng là một trong những "trụ cột" sản xuất lương thực của thế giới,
 nay lại trở thành một trong những nhà nhập khẩu lớn nhất toàn cầu.
- Trong khi đó, giá lúa mì tăng từ 50-70% năm 2010, Ai Cập phải mở rộng
số lượng người chia khẩu phần lương thực và đường. Khoảng 40%
nhân dân phải sống với mức thu nhập chưa tới 2 USD/ngày. Trong những
ngày bạo loạn, dự trữ ngoại tệ của Ai Cập từ 36 tỉ đô xuống còn 20 tỷ USD.
Hai là, Thực hiện chính sách cai trị cứng rắn.
Người dân Ai Cập và Tuynidi bị đàn áp, bị khủng bố, bị nhũng nhiễu với bộ
máy đàn áp mạnh, được tổ chức chặt chẽ, chính quyền sử dụng các
biện pháp mạnh tay và đồng bộ để kiểm soát tình hình. Trong 30 năm
 làm Tổng thống, ông Mubarak đã áp dựng những biện pháp nghiêm
ngặt đối với dân chúng.
Tuynidi là nhà nước cảnh sát: Với hơn 10 triệu dân, có tới 160.000 cảnh
sát, gấp 6 lần của nước Pháp.Nhưng lực lượng cảnh sát không phải để
giám sát việc thi hành luật pháp, mà là thành phần nhũng nhiễu,
hạch sách người dân và là công cụ bảo vệ chính quyền của nhà lãnh
đạo độc tài. Tổng thống Ben-A-li thì chuyên quyền, thiên vị, theo đòi lối
sống vương giả; xây dựng một mô hình nhà nước mafia với bộ máy cai trị
 hà khắc như vua chúa đã khơi thùng thuốc nổ uất ức chực chờ mồi lửa tự
thiêu của anh cử nhân tin học bán rau .
Tổng thống Mubarak được cho là lãnh đạo độc tài, đàn áp chính trị, bóp
 nghẹt tự do, dân chủ là một trong những nguyên nhân dẫn đến biểu tỉnh
 ở Ai Cập.
Do chính sách chống các phần tử khủng bố Hồi giáo cực đoan được
Hoa Kỳ và phương Tây khen ngợi, Ben-A-li đã trở thành một đồng minh
trung thành của Mỹ và các nước Tây phương. Thế nhưng, viện lý do
chống khủng bố, Ben-A-li đã thẳng tay đàn áp, khủng bố những người
 Hồi giáo vô tội khác, dẫn đến việc vi phạm nhân quyền trầm trọng.
Ben-A-li đã nhiều lần thay đổi hiến pháp, cho phép ông ta nhiều lần ra
 tranh cử tổng thống. Gần đây ông ta chuẩn bị sửa đổi hiến pháp một lần
 nữa để loại bỏ giới hạn tuổi tác bởi vì ông ta hiện 74 tuổi, trong khi giới
 hạn tuổi tác của tổng thống trong hiến pháp là 75 để ông ta có thể ra
tranh cử tổng thống một lần nữa vào năm 2014. Đây là một chính phủ độc
 tài toàn trị.
Để củng cố sự cai trị của mình, ông Ben-A-li đã ngăn chặn tự do thông tin
 bằng một chế độ kiểm duyệt gắt gao tất cả các phương tiện truyền
 thông chính thống, cũng như các tin tức trên internet. Mọi phát biểu
của người dân có nội dung phản đối chính quyền đều bị cấm và bị đàn áp.
 Ba là, Hệ thống pháp luật không minh bạch, nạn tham nhũng,
 hối lộ tràn lan.
- Trong 23 năm làm Thông thống, ông Ben-A-li đã để cho cả bộ máy nhà
nước tham nhũng, hối lộ, ở Tunisia tham nhũng đã trở thành quốc nạn,
và chính sự bất công do nạn tham nhũng, hối lộ đã trở thành một
trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của chế độ Ben-A-li.
- Đáng chú ý là, tham nhũng, hối lộ được bảo kê bởi gia đình tổng thống
 và gia đình vợ ông ta, tạo điều kiện cho tệ nạn này phát triển ở mọi
 cấp chính quyền, từ trung ương đến địa phương, trong suốt thời gian
Ben-A-li nắm quyền.
- Vì thiếu một hệ thống pháp luật công minh, thành phần tham nhũng
ở Tuynidi tự do tác yêu, tác quái. Họ không bị tòa án trừng phạt.
Tất cả những tệ nạn đó đã đến một mức độ báo động, khiến cho người
dân không thể nào chịu đựng được và cuộc cách mạng Hoa Nhài mới
bùng nổ.
- Do tham nhũng, nhận hối lộ, nên tài sản của gia đình Tổng thống
Ben-A-li lên đến 5 tỉ euro. Có tin, khi chạy chốn sang A rập Saudi,
vợ hai của Ben-A-li là Bà Leila đã đem theo hai thùng, 1,5 tấn vàng,
 tương đương với 45 triệu euro và hiện nay bà Leila đang ở Saudi Arabia
 cùng với ông Ben Ali và 400 người thân cận...Vì vậy, vụ tự thiêu hôm 17/12
 của Bô-ua-di-di 26 tuổi đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly,
 thổi bùng ngọn lửa bất mãn trong dân chúng.
Bốn là, Thất nghiệp ngày càng tăng.
 -Ngân hàng Thế giới cho biết 37% sinh viên Tuynidi không kiếm được việc
 làm sau 3 năm rưỡi tốt nghiệp.
- Ở Ai Cập, giới trẻ (chiếm số đông) ngày càng tỏ ra bất mãn đòi thay đổi
chế độ, vì trong số 83 triệu dân của nước này, 2/3 ở độ tuổi dưới 30 và
chiếm 90% số người thất nghiệp. Con số thất nghiệp là 14%; trong đó
 có 20% thanh niên tốt nghiệp đại học và 27% những người có độ
tuổi 20-29.
Năm là, Thực hiện chính sách gia đình trị
Ngoài tham nhũng, Ai Cập và Tunisia còn thực hiện chính sách gia đình trị.
+ Tuynidi :
- Gia đình vợ của tổng thống có một kỷ lục nổi tiếng về sự lạm quyền
 để tham nhũng đất đai, cho nên sự bất mãn ở Tunisia đã tồn tại trong
 một thời gian dài kể từ khi Ben Ali lên cầm quyền".
- Hoạt động kinh doanh của gia đình Ben Ali bao trùm nhiều lĩnh vực:
ngân hàng, bảo hiểm, đánh cá, xây dựng. Ngoài ra họ còn có 30 bất động
 sản, với nhiều khách sạn. Tổn chức Minh bạch Quốc tế cho hay gia đình vợ
 ông Ben Ali, bà Leila Trabelsi, có nhiều bất động sản ở Paris, vùng nghỉ
 mát ở núi Alpe và vùng Co te d'Azur và có nhiều triệu USD Mỹ trong tài
khoản ngân hàng.
Đã vậy, Ben Ali tự kiêu và tự mãn, mặc cho bà Đệ nhất phu nhân Leila
Trabelsi kiêu ngạo ngang tàng, lũng đoạn cuộc sống kinh tế chính trị
thủ đô Tunis một cách lố bịch. Bà cố nhét cậu ấm con trai là El Ma ten vào
 Quốc hội dù không có tài cán gì, càng làm cho công luận thêm phẫn nộ.
- Hai dòng họ của Ben Ali và của vợ Leila Trabelsi kiểm soát toàn bộ nền
kinh tế, vơ vét mọi của cải. Vợ có "máy bay riêng để sắm hàng". Ben Ali,
74 tuổi, dự định khi già yếu sẽ để vợ 53 tuổi lên kế vị.
- Bà Leila Trabelsi lợi dụng quyền chồng, biến gia đình dòng họ Trabelsi
thành nhóm tài phiệt thế lực nhất, kiểm soát phần lớn các khu vực kinh tế
 Tunisia. - Mắc chứng nghiện mua sắm, đệ nhất phu nhân này thường dùng
 chuyên cơ Boeing của chính phủ để "viếng thăm không chính thức" các
thủ đô thời trang của Châu Âu.
- Có tin bà Leila Trabelsi đã mang theo 1,5 tấn vàng của ngân hàng Trung
 ương lên máy bay riêng cùng các thành viên của gia đình bỏ trốn càng
khiến người biểu tình phẫn nộ hơn .
- Trước khi chạy chốn, bà Trabelsi đã tới ngân hàng trước thời điểm trước
 khi cuộc biểu tình lên tới đỉnh điểm để chỉ thị giám đốc ngân hàng Trung
ương giao cho bà những thỏi vàng có tổng giá trị là 3 8 triệu bảng Anh
 (ước tính khoảng 54 triệu USD).
+ Ở Ai Cập: Gamal con trai của Tổng thông Mubarak đã được chuẩn bị
 thay cha lên cầm quyền.
Sáu là, vai trò của Interrnet
Sức mạnh của intemet, sức mạnh của truyền thông đã trở thành phương
 tiện hữu hiệu để tập hợp quần chúng. Trong những ngày có biến động,
Internet và các trang web đã đóng một vai trò quan trọng, là nền tảng
 giúp người dân Tuynid truyền tải thông tin, kêu gọi người biểu tình
xuống đường lật đổ Tổng thống. Được biết cứ một giây trôi qua thì có 28
 thông điệp được đăng tải trên mạng. Nó trở thành một công cụ kết nối
phong trào biểu tình của cả nước và cho toàn bộ khu vực trong những
ngày qua.
Bảy là, Nguyên thủ các nước Bắc Phi có truyền thống làm
Tổng thống nhiều nhiệm kỳ:
Tổng thống Lybia làm 41 năm (từ năm 1969 đến nay); Tổng thống Ai Cập
 Mubarak làm 30 năm; Tổng thống Tuynidia ông Ben Ali làm 23 năm;
Tổng thống Yemen 32 năm…, dẫn đến sự uất ức, ngán ngẩm của dân chúng.
Tám là, Quân đội đứng trung lập, một bộ phận ngả theo nhân dân.
Ở Tuynidi khi xe tăng xuất hiện, nữ thanh niên, nữ sinh viên mang biểu
ngữ quân đội bảo vệ cuộc sống của dân", ôm những bó hoa ra trước
 mũi súng, quàng vòng hoa nhài lên cổ người lái xe tăng, leo lên chụp ảnh
 kỷ niệm. Xe tăng quay cả về doanh trại, chỉ có vài đơn vị chống nổi dậy
 chuyên đàn áp nổ súng lác đác 2 buổi rồi chuồn sạch trước khí thế của
 quần chúng. Nhiều nơi khi bị cảnh sát đàn áp, nhân dân ùa vào các
 doanh trại quân đội lánh nạn.
C. MỘT SỐ VẦN ĐỀ RÚT RA
1. Làn sóng biểu tình bạo động dâng cao tại các nước A Rập vùng Bắc Phi
 và Trung Đông cho thấy tệ nạn, nghèo đói, bất công, thất nghiệp và
tham nhũng luôn là những yếu tố gây ra bất ổn ở đây. Một khi người
 dân phẫn uất thì họ có khả năng lật nhào các chính quyền không được
lòng dân.
2. Các cuộc biểu tình bạo động tại các quốc gia A Rập vùng Bắc Phi và
 Trung Đông trong thời gian qua khiến người ta liên tưởng đến các cuộc
 cách mạng màu tại Châu Âu mấy năm trước.
3. Nhiều người ngạc nhiên, đây là lần đâu tiên, một cuộc cách mạng ở
 đất nước Ả-rập thành công mà không có sự hiện diện của một lãnh tụ
nào đứng ra lãnh đạo, không có bàn tay của quân đội, hay sự nhúng
tay của một đất nước nào bên ngoài, mà tất cả đều do chính người dân
Tuynidi, Ai Cập làm nên.
4. Đây là cuộc cách mạng đầu tiên ở 22 nước Ả-rập, từ I-rắc đến
Moroco và đây là lần đầu tiên người dân tự động xuống đường
 bày tỏ ý nguyện của họ để lật đổ một chính phủ độc tài đã chứng
 minh với thế giới rằng, mọi chế độ độc tài, đi ngược lại nguyện
 vọng của đa số dân chúng, sẽ bị chấm dứt khi người dân bị dồn
 tới đường cùng. Một khi sự chịu đựng những bất công trong
xã hội của dân chúng lên tới đỉnh điểm thì chắc chắn các nhà
 lãnh đạo độc tài sẽ phải ra đi.
5-Súng đạn của cảnh sát không ngăn được dòng người biểu tình
 ngày một đông thêm mà chỉ khiến các vụ đụng độ, tấn công trụ
sở công quyền gia tăng và đặt các nước thuộc Bắc Phi vào sự
 hỗn loạn chưa từng có.
D. PHẢN ƯNG CỦA THÊ GIỚI.
1- Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon kêu gọi các bên ở Tuynidi
kiềm chế và đối thoại để chấm dứt bạo loạn đổ máu, thực tế gián tiếp ủng
 hộ phong trào đấu tranh ở các nước này. Ông Ban Ki-moon nói:
"Bất cứ việc tấn công người biểu tình ôn hòa nào cũng không
 thể chấp nhận được và tôi lên án chúng”.
2- Chính phủ Thụy Sĩ đã ra lệnh đóng băng tài sản của cựu Tổng thống
Tuynidi Ben Ali, Tổng thống Mubarak..
3- Mỹ kêu gọi công dân của họ rời Ai Cập càng sớm càng tốt. Tổng thống
 Mỹ Barack Obama đã gọi điện cho lãnh đạo một số nước để thảo luận
 tình hình Ai Cập, kêu gọi Ai Cập chuyển giao trong trật tự, hòa bình
 ngay lập tức. Trong bài phát biểu 10 phút từ Nhà Trắng, Obama cho
 biết "đây là thời điểm để Ai Cập chuyển giao quyền lực hòa bình”.
Obama nói tại Phòng Thương mại Hoa Kỳ: !'Rõ ràng Ai Cập cần phải
 tìm hướng đi và người Ai Cập đang có tiến bộ".
Thực chất, Ai Cập là đồng minh của Mỹ, từ 1975 đến nay, mỗi năm
Mỹ viện trợ quân sự cho Ai Cập 1,3 tỷ USD; Mỹ đã viện trợ kinh tế cho
 Ai Cập gần 30 tỷ USD, nhưng những biến động ở Cai Cập vừa qua Mỹ
phát hiện vai trò của Tổng thống Mubarak đã hết tác dụng nên Mỹ
 chơi con bài quay lưng lại với người đồng minh lâu năm nhất của mình
 ở khu vực Bắc Phi - Mubarak.
4- Thủ tướng Anh có đồng quan điểm với Mỹ rằng: “Ai Cập nay cần một
quá trình cải cách chính trị toàn diện". Thủ tướng Anh David Cameron đã
lên án tình trạng bạo lực ở Ai Cập.
5- Các nước châu Âu lúc biểu tình đang diến ra, đã thúc giục Tổng thống
 Mubarak tránh bạo lực và thực hiện cải cách. Tổng thống Pháp, Thủ tướng
 Đức kêu gọi Tổng thống Mubarak bằng mọi giá cố gắng tránh sử dụng vũ
 lực chống lại dân thường và những người biểu tình một cách hòa bình.
Đức ngừng xuất khẩu vũ khí cho Ai Cập. Năm ngoái, Đức xuất khẩu
22 triệu euro tiền vũ khí sang nước này.
6- Chính phủ Trung Quốc chọn im lặng, không tuyên bố gì về biến cố
 Tuynidi cũng như Ai Cập. Biện pháp cô lập mọi thông tin từ bên ngoài
 về sự kiện này được đưa ra. Toàn bộ hệ thống truyền thông, truyền hình
 nhà nước không được phát đi bất cứ thông tin nào về vấn đề mà cả
thế giới đang theo dõi này nếu chưa được kiểm duyệt và thông qua.
Tất cả mạng lưới Internet toàn Hoa Lục đều không thể truy
 cập khi đánh hai từ Ai Cập hay Tuynidi. Người lướt mạng sẽ
nhận được giòng chữ: "Theo pháp luật liên quan cùng với những
 quy định và chính sách hiện hành, kết quả tìm kiếm không thể
hiển thị những gì bạn yêu cầu”.
 Phản ứng của Việt Nam:
- Tuy địa bàn này chưa phải là có ảnh hưởng lớn đến Việt Nam, các
lĩnh vực này, thương mại hai chiều hơn 6 tỷ USD, Việt Nam xuất hơn 3 tỷ;
 Việt Nam và một số nước có quan hệ bạn bè, truyền thống cho nên
 công dân VN tại đó đều được bảo vệ, cư xử đúng mức.
- Các cơ quan chức năng cần hướng dẫn báo chí đưa tin khách quan;
ta xem đây là công việc nội bộ của họ, ta mong muốn tình hình sớm
được ổn định; có các phương án bảo vệ (cần thiết phải chủ động sơ tán)
 công dân Việt Nang công tác, học tập và làm ăn tại khu vực này.
Hệ luỵ:
- Trung Đông, Bắc Phi luôn là điểm nóng của thế giới; việc thúc đẩy tiến
 trình hoà bình còn gặp nhiều khó khăn.
- Làn sóng nhập cư vào Châu âu là rất lớn.
- Tình hình ở các nước Bắc Phi đang lan truyền sang nhiều nước.
- Trong tương lai các nhà lãnh đạo ở các nước này không thể giữ cách
lãnh đạo như lâu nay mà phải có điều chỉnh.
- Do khu vực này giữ truyền thống độc đoán nên ít có khả năng tao ra sự
 thay đổi lớn, hay sự đổ vỡ lớn; các nước đều có chung muốn có sự ổn
 định, cải cách đáp ứng nguyện vọng người dân.....
 Nhận định của Long Điền: Lần đầu tiên 22 quốc gia Á Rập thực
 hiện các cuộc biểu tình bất bạo động khởi sự từ đầu năm  2011 chống các
 chính quyền độc tài mang đến kết quả thành công vẽ vang, làm cho các chế
 độ độc tài kể cả độc tài cộng sản rất đổi lo sợ. Ảnh hưởng của các cuộc
 Cách Mạng Trung Đông và Bắc Phi làm cho các chế độ độc tài tại Trung
 Cộng và CSVN lo sợ hơn các cuộc Cách Mạng Đông Âu trước đó 1989. Lý
 do là các cuộc cách mạng tại Trung Đông và Bắc Phi lan nhanh như ngòi
 thuốc nổ và đồng loạt làm sụp đổ các chế độ độc tài đã hiện diện từ vài
 chục năm trước.
 II-Gene Sharp là ai?

  1-Sơ lược tiểu sử của GS Gene Sharp:
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Gene Sharp
Sinh
Nơi cư trú
Quốc tịch
USA
Ngành
Nơi công tác
Ảnh hưởng bởi
Gene Sharp, giáo sư khoa học chính trị Mỹ, sinh tháng 1 năm 1928 tạiOhio, Hoa Kỳ. Ông là người sáng lập ra tổ chức Albert Einstein, và là tác giả của tư tưởng Cách mạng bất bạo động nổi tiếng làm thay đổi thế giới hiện đại. Gene Sharp chính là người nay được công nhận là tác giả chiến lược đằng sau cuộc lật đổ chính phủ Ai Cập.
Khi Slobodan Milosevic ở Serbia vàViktor Yanukovych  Ukraina bị sụp đổ trong các cuộc "cách mạng màu" tràn qua Đông Âu, các phong trào dân chủ này đều bày tỏ lòng biết ơn trước đóng góp của Sharp.[2]
http://www.peace.ca/genesharp.htm
Gene Sharp là Senior Scholar tại Viện Albert Einstein ở Boston, Massachusetts. Từ năm 1965, ông đã tổ chức các cuộc nghiên cứu tại Trung tâm Đại học Harvard cho quan hệ quốc tế trong gần ba mươi năm. Ông là giáo sư danh dự về khoa học chính trị tại Đại học Massachusetts Dartmouth.
Tiến sĩ Sharp, người được gọi là "các Clausewitz của chiến tranh bất bạo động," thành lập Viện Albert Einstein vào năm 1983 để thúc đẩy nghiên cứu, nghiên cứu chính sách, và giáo dục về việc sử dụng chiến lược của đấu tranh bất bạo trong khuôn mặt của chế độ độc tài, chiến tranh, diệt chủng, và áp bức .
Ông là Tiến sĩ Triết học lý luận chính trị từ Đại học Oxford (1968),  Thạc sĩ Xã hội học (1951), và  Cử nhân Khoa học Xã hội (1949) từ Đại học bang Ohio. Manhattan College trao tặng ông bằng danh dự của tiến sĩ luật (1983). Rivier Cao đẳng trao tặng ông một bác sĩ danh dự của dịch vụ nhân đạo (1996).
Ông đã sống mười năm ở Anh và Na Uy. Ông làm việc tại viện  nghiên cứu tại Đại học Oxford, và ở Na Uy, ông giữ vị trí giáo sư tại Đại học Oslo và Viện Nghiên cứu Xã hội.
Tiến sĩ Sharp là tác giả của nhiều cuốn sách về cuộc đấu tranh bất bạo động, các vấn đề chính trị, chế độ độc tài, và chính sách quốc phòng. Tác phẩm của ông đã được xuất bản bằng tiếng Anh ở một số nước và trong hai mươi bảy ngôn ngữ khác. 
Ngoài ra, ông là đồng biên tập của sách “Kháng chiến, chính trị, và cuộc đấu tranh giành độc lập của Mỹ, 1765-1775 ”(1986) và các hành động bất bạo động: Hướng dẫn Nghiên cứu (1997), cũng như một người đóng góp cho một số bách khoa toàn thư.
Một cuốn sách mới, The Power và thực tiễn của cuộc đấu tranh bất bạo động, đang được chuẩn bị bằng tiếng Anh. Các phiên bản trước đó ở Tây Tạng đang được xuất bản với lời bạt của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Tác phẩm ngắn của Tiến sĩ Sharp gần đây bao gồm Từ Độc Tài đến Dân Chủ (tiếng Anh, Miến Điện, Tây Ban Nha, Karen, và Indonesia). Các phiên bản Miến Điện đã nhiều lần lên án bởi các nhà độc tài quân sự Miến Điện,   Indonesia.  Tiến sĩ Sharp đã trong những năm gần đây có những nỗ lực lớn để chuẩn bị bài thuyết trình đơn giản về bản chất của cuộc đấu tranh bất bạo động và các ứng dụng của nó chống lại chế độ độc tài. Ông đã tiến hành các cuộc hội thảo và lấy ý kiến ​​về đấu tranh bất bạo động chiến lược trong một số tình huống khủng hoảng.
Ông vẫn cho rằng những vấn đề lớn chưa được giải quyết chính trị của thời đại chúng ta - chế độ độc tài, diệt chủng, chiến tranh, áp bức xã hội, và bất lực phổ biến - đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ lại chính trị để phát triển các chiến lược mới và các chương trình giải quyết của họ. Ông tin rằng thực tế, kế hoạch chiến lược, đấu tranh bất bạo có thể được thực hiện có hiệu quả cao cho các ứng dụng trong các cuộc xung đột để nâng áp bức và như là một thay thế cho bạo lực.
Ông bị bỏ tù chín tháng vào năm 1953-4 vì phản đối việc bắt thanh niên Hoa Kỳ phải nhập ngũ trong Chiến tranh Triều Tiên.
Albert Einstein viết lời tựa cho cuốn sách đầu tiên của ông - Gandhi Wields the Weapon of Moral Power: Three Case Histories, xuất bản vào năm 1960.
Luận văn tiến sĩ triết học tại Đại học Oxford D năm 1968 của ông, Chính trị của Đấu tranh bất bạo động, là cơ sở cho một cuốn sách với tiêu đề tương tự, được xuất bản năm 1973.
Ông từng là Giáo sư (nay là giáo sư danh dự) của Khoa Khoa học chính trị tại Đại học Massachusetts từ năm 1972, trong khi đồng thời giữ vị trí nghiên cứu tại Đại học Harvard.
Ông thành lập tổ chức Albert Einstein vào năm 1983, một tổ chức phi lợi nhuận thúc đẩy việc sử dụng bất bạo động trong xung đột trên thế giới.
Một phim tài liệu của đạo diễn người Scotland, Ruaridh Arrow, "How to Start a Revolution" về ảnh hưởng toàn cầu từ những việc làm của Gene Sharp được phát hành vào tháng 9 2011. Phim này đã đoạt được giải "Best Documentary" (phim tài liệu hay nhất) và "The Mass Impact Award" (phim gây ảnh hưởng tới quần chúng nhiều nhất) tại đại hội phim ảnh Boston vào tháng 9 2011.[3] Phim này được chiếu lần đầu tiên tại đại hội phim Raindance ở London vào ngày 2 tháng 10 2011, nơi mà nó cũng được giải phim tài liệu hay nhất.[4]
Gene Sharp đã được đề cử cho giải Nobel Hòa bình vào năm 2015   và đã từng được đề cử ba lần trong năm 2009, 2012 và 2013.  Năm 2011, ông được trao giải thưởng Giáo dục Hòa bình El-Hibri.   

Chú thích

1.   ^ a ă Ruaridh, Arrow (ngày 21 tháng 2 năm 2011). “Gene Sharp: Author of the nonviolent revolution rulebook”. BBC.
3.   ^ 2011 Boston Film Festival (schedule) (truy cập ngày 8 tháng 9 2011)


III-Cách Mạng và Bất Bạo Động:
-Nhiều người cho rằng đã là cách mạng thì phải bạo động, chỉ có các hành
 động cải cách, sửa đổi cho tốt hơn thì mới không dùng bạo lực. Như vậy
 Bất Bạo Động có phải là thụ động không? Một chế độ độc tài, một chế độ
 cộng sản chuyên chính, khi muốn thay đổi toàn bộ, bắt buộc phải sử dụng
 bạo lực, vì chính quyền có sẳn lực lượng công an, bộ đội được trang bị tận
 răng thì không dễ gì thương lượng vói chúng, nhiều phần tử trong CSVN đã
từng tuyên bố:”Quyền lực sinh ra từ nòng súng” do đó không dễ nói chuyện 
 với CS khi không có lực lượng tương xứng.
 Nhưng GS, TS Gene Sharp đã khẳng định: chọn lựa vũ trang để chống
 một chính quyền độc tài là một sai lầm, vì chính quyền luôn hơn hẳn
 phe chống đối về trang bị vũ khí.
Cho dù phương thức dùng bạo lực có lợi ích gì đi nữa nhưng có một điều
đã rất rõ là: Khi đặt tin tưởng vào phương cách bạo lực, các nhà
tranh đấu đã chọn ngay cách đấu tranh mà những kẻ đàn áp
hầu như luôn luôn chiếm ưu thế. Những kẻ độc tài có đầy đủ
trang bị để đánh phủ đầu bằng bạo lực. Cho dù các nhà dân chủ có cầm
 cự được lâu hay chóng,thực tế thảm thương sau cùng của việc đối chọi
bằng súng ống thường không tránh được. Phía độc tài hầu như luôn luôn
 nắm ưu thế về súng ống, đạn dược, phương tiện vận chuyển, và quân số.
 Cho dù dũng cảm tới đâu, những nhà dân chủ hầu như luôn luôn không
 đáng là đối thủ của chúng.

1/19/2012  (Wikibấtbạođộng)


1-Đấu tranh bất bạo động là gì?
   
    
Trong một tiến trình đấu tranh bất bạo động, hành động đối kháng dân sự được áp dụng để thách thức quyền lực của kẻ cầm quyền, làm cho cái giá phải trả của quá trình áp bức cao hơn, và làm thuyên giảm các nguồn lực của phía cầm quyền, trong đó có các lực lượng quân đội và cảnh sát.
Có hơn 198 chiến thuật (hay phương pháp) đấu tranh bất bạo động. Nhiều hình thức bày tỏ sự phản kháng khác nhau - kháng thư, tuần hành, hình ảnh biểu ngữ hay biểu tình số lượng lớn - có thể làm suy yếu sự cầm quyền của thể chế áp bức, đồng thời giúp tuyển chọn vận dụng thành viên, huy động, và tăng cường sự tham gia góp sức của người dân vào phong trào đấu tranh bất bạo động. 
Một số hình thức bất hợp tác nhất định - như bỏ việc, từ chối thực thi mệnh lệnh, và bất tuân dân sự - cũng giúp phá vỡ thế cân bằng giữa kẻ cầm quyền và giới đấu tranh. Các hình thức bất hợp tác khác - như lãn công, đình công, tẩy chay, không đóng phí, hay thuế - có tác dụng ngưng cắt nguồn lực vật chất của thể chế cầm quyền. Các hình thức đấu tranh trực tiếp như tọa kháng, đấu tranh kinh tế có mục tiêu, hay ngưng trệ hoạt động thường lệ có thể gây áp lực hay phá vỡ trực tiếp hệ thống quản lý điều hành của thể chế cầm quyền.
Những phương thức chiến thuật này thay đổi rất nhiều về mặt thời gian hay nguồn lực cần thiết để thực thi (ví dụ như việc biểu tình chiếm cứ một tòa nhà so với việc vẽ hay treo một dấu hiệu), về mặt các rủi ro liên quan (ví dụ như việc đình công công cộng so với việc vận động người tiêu dùng tẩy chay hay đình công bằng cách ngồi nhà), về mức độ cần tập trung hay phân bổ số người ra sao (ví dụ như việc biểu tình trước tòa thị chính so với việc vận động một cộng đồng dân cư lớn không đóng thuế), hay về số lượng người cần huy động để thực hiện một kế hoạch nhất định (ví dụ việc tổ chức một cuộc tuyệt thực phản kháng so với một chiến dịch bất tuân dân sự lớn).
Các phương thức chiến thuật còn thay đổi đa dạng theo chức năng; ví dụ một số chiến thuật - như phân phát tài liệu nhằm vận dụng kết nạp nhân sự hoặc vận động gây quỹ, hay huấn luyện nhân sự cho phong trào - có tác dụng tăng cường sức mạnh cho tổ chức, trong khi đó các chiến thuật khác - như biểu tình số lượng lớn hay lãn đình công - lại có tác dụng đối diện đấu tranh trực diện với thể chế cầm quyền.
2. Đấu tranh bất bạo động có tác dụng thế nào?








Đấu tranh bất bạo động có tác dụng là làm suy giảm khả năng quyền lực của thể chế cầm quyền để ảnh hưởng tới các sự kiện cũng như khả năng lạm dụng vị trí cầm quyền của mình để quản trị xã hội và quốc gia. Việc này xảy ra khi trách nhiệm cũng như sự trung thành của các nhóm hay định chế giúp cho sự tồn tại của chế độ (như công an, cảnh sát, quân đội, truyền thông, hành chính, kinh doanh, người lao động, học sinh sinh viên, các định chế tôn giáo hay các thành phần khác), là những yếu tố và chế độ dựa vào, bị suy giảm hay thậm chí sụp đổ. Các thành phần nói trên có thể thay đổi vận động vào các vị trí trung lập trong tương quan tới phong trào đấu tranh hoặc thậm chí chủ động tham gia hỗ trợ cho phong trào để đối lại với những chính sách hay luật lệ sai trái của thể chế cầm quyền.
Khi các nhóm đối kháng trong một xã hội bắt đầu có khả năng thống nhất kết hợp lại với nhau, để hình thành một phong trào đấu tranh bất bạo động, nhằm xây dựng một chiến lược hoạt động và định ra các mục tiêu đấu tranh căn cứ vào những phân tích chính xác dựa trên tình hình thực tế, đồng thời tổ chức thực thi các hoạt động để nhằm thay đổi hay xoay chuyển sự trung thành và cơ chế hoạt động của các thành phần hỗ trợ chế độ, thì chế độ mất đi khả năng cầm quyền và do đó quyền lực được chuyển vào tay nhân dân.
3. Đấu tranh bất bạo động khác với “bất bạo động” đơn thuần hay đối kháng thụ động như thế nào?
"Bất bạo động" đơn thuần thông thường là một sự lựa chọn đạo đức. Trong khi đó, đấu tranh bất bạo động thì lại là một lựa chọn mang tính thực tế. Đấu tranh bất bạo động là lựa chọn dựa trên lực lượng và sức mạnh - tổ chức hóa và áp dụng vào công cuộc đấu tranh để giành được các quyền lợi hay các quyền chính trị, quyền kinh tế và các mục tiêu xã hội khác. Nhiều người từng sử dụng đấu tranh bất bạo động trong quá khứ để giành các quyền của mình vì họ nhìn nhận rằng các biện pháp bạo động hay vũ trang đã không hiệu quả hay cũng vì thực tế là họ không có khả năng sở hữu các phương tiện hay vũ khí để thực hiện một cuộc đấu tranh vũ trang.
Khi một phong trào đấu tranh bất bạo động kiên quyết theo đuổi được chiến lược đoàn kết con người và huy động họ hành động, tập trung vào việc đạt được các mục tiêu đã đặt ra trong khi làm thuyên giảm sự trung thành và hợp tác của các thành phần hỗ trợ cho chế độ - đặc biệt là sự trung thành của cảnh sát, công an và quân đội - thì phong trào có khả năng thu được quyền lực có thể thực hiện thay đổi mang tính quyết định. Hoàn toàn không có gì là thụ động khi tận dụng những sức mạnh như vậy. Gandhi cho rằng đấu tranh bất bạo động lại là “sức mạnh lớn và chủ động nhất trong thế giới.”
4. Đấu tranh bất bạo động có thể đối lại với các chế độ chuyên chế bạo ngược hay trong các xã hội bị áp chế nặng nề hay không?

Nhiều thể chế bạo quyền ghê gớm nhất trong thế kỷ 20 đã bị phá bỏ thông qua các cuộc đấu tranh bất bạo động.
Tại Chile, Tướng Augusto Pinochet là kẻ đã cho tra tấn và thủ tiêu hàng ngàn nhà đối kháng, nhưng phong trào đấu tranh bất bạo động tại đây đã thực hiện được việc lật đổ ông ta.
Chế độ phân biệt chủng tộ Apartheid tại Nam Phi trước đây từng ra luật cấm việc hội họp của người da đen thậm chí đe dọa, và thực tế đã thực hiện thủ tiêu các nhà vận động tổ chức đấu tranh, nhưng rốt cục cuộc đấu tranh bất bạo động của người da đen bản địa tại đây vẫn đã có được khả năng phá vỡ các quyền lực nội bộ cũng như các hỗ trợ quốc tế đối với thể chế này.
Tại Philippines, hơn 70 công nhân đấu tranh đã bị giết hại trước cuộc bầu cử năm 1986, nhưng dù vậy người dân vẫn thành công trong việc tổ chức lật đổ nhà độc tài Ferdinand Marcos không lâu sau đó bằng các phương thức bất bạo động mang tên quyền lực nhân dân.
Và phong trào công đoàn Đoàn kết (Solidarity) của Ba Lan đã mở ra không gian hoạt động cho giới đối kháng, khi mà trước đó chế độ chính trị tại đây rất ngột ngạt, đặc biệt khi chế độ Cộng sản áp dụng thiết quân luật.
Một trong các lý do cơ bản mà những cuộc đấu tranh bất bạo động nói trên cũng như tại những nơi khác đã thành công trước chế độ áp bức là vì họ đã tác động được vào và làm thay đổi sự hỗ trợ của các cột trụ chính trong xã hội – bao gồm cả các lực lượng an ninh - vốn là những thành phần nâng đỡ cho chế độ cầm quyền. Một khi phong trào đấu tranh bất bạo động bắt đầu có được khả năng xoay chuyển những cột trụ như vậy, thì xã hội sẽ ở trong tình trạng mà chế độ không còn có thể cai trị được nữa, và do đó dẫn đến sự thay đổi lãnh đạo hay thể chế.
Những người không hiểu được phương thức vận hành nói trên của đấu tranh bất bạo động thường phủ nhận những thành tựu mà phương pháp này đã và đang đem lại - nhưng ngược lại, hàng triệu triệu người vốn nay không còn phải sống dưới các chế độ toàn trị nữa do bị lật đổ bởi các chiến lược bất bạo động - thì sẽ không đồng tình với những người còn nghi ngờ ở trên.
5. Các phong trào đấu tranh bất bạo động lớn hiện nay đang xảy ra ở đâu trên thế giới?
Hiện có nhiều phong trào đang diễn ra trên thế giới, ví dụ như các nhóm đấu tranh đòi quyền dân sự tại các quốc gia như Azerbaijan, Belarus, Miến Điện, Colombia, Trung Quốc, Cuba, Ai Cập, Honduras, Iran, The Gambia, Việt Nam. Tại các nơi như Tây Tạng, Tây Papua, Tây Sahara hay Palestine, một số nhóm cũng đang đấu tranh theo hình thức bất bạo động cho các mục tiêu dân tộc.
6. Đấu tranh bất bạo động có xảy ra thường xuyên trong lịch sử hay không?
Đấu tranh bất bạo động xảy ra trong lịch sử thường xuyên hơn người ta hay nghĩ.
Anh Quốc đã phải từ bỏ chế độ cai trị thuộc địa đối với Ấn Độ sau một cuộc đấu tranh bất bạo động trường kỳ kéo dài hàng thập niên do Thánh Gandhi lãnh đạo.
Người dân Đan Mạch cũng như một số nước khác ở Châu Âu đã áp dụng phương pháp đối đầu dân sự đối với chế độ quản trị Đức Quốc xã trong thời Thế chiến II, gây khó khăn cho việc chiếm đóng cai trị, đồng thời củng cố tinh thần đấu tranh và sự đoàn kết, trong lúc phần nào cứu giúp được hàng ngàn sinh mạng người Do Thái tại Berlin, Đan Mạch, Bulgaria và những nơi khác.
Người Mỹ da đen đã áp dụng phương thức bất bạo động cho cuộc đấu tranh của mình chống lại tình trạng phân biệt màu da tại Hoa Kỳ trong những năm 60.
Công nhân Ba Lan đã thực hiện các cuộc đình công hồi những năm 80 và giành được quyền thành lập công đoàn độc lập - là thắng lợi to lớn trong một đất nước bị Cộng sản cai trị khi mà hàng triệu binh sĩ Liên Xô vẫn còn đồn trú tại đây.
Hai nhà độ tài Marcos tại Philippines và Pinochet tại Chile bị hạ bệ bởi các phong trào bất bạo động hồi những năm 80.
Phong trào đòi xóa bỏ tệ phân biệt chủng tộc Apartheid tại Nam Phi đã áp dụng các hình thức tẩy chay cũng như bất hợp tác khác để làm suy yếu chính quyền da trắng, đưa chính quyền này vào thế phải thương lượng với phía đối kháng về tương lai thể chế chính trị của đất nước.
Vào cuối những năm 1980, người dân Đông Âu và Mông Cổ đã tổ chức được các cuộc biểu tình chống đối dân sự một cách hiệu quả gây sức ép to lớn tới các chế độ Cộng sản, kết quả là xóa bỏ được sự độc quyền cai trị của họ.
Năm 2000, người Séc-bia lật đổ được Slobodan Milosevic, sau khi phong trào đấu tranh bất bạo động vận dụng được sự hỗ trợ của công an và quân đội, qua đó phá vỡ được các cột trụ chống đỡ chế độ độc tài khi đó.
Năm 2002, nhân dân tại đảo quốc Madagascar đã đoàn kết với nhau trong tinh thần bất bạo động để bảo vệ kết quả cuộc bầu cử tổng thống tại đây.
Năm 2003, người dân Gru-dia thực hiệc các hành động bất bạo động để phơi bày các gian lận bầu cử, qua đó đòi thực hiện đúng kết quả bầu cử, năm 2004 người dân Ukraina cũng làm được việc tương tự.
Năm 2005, người dân Li-băng thực hiệc các hành động bất bạo động để xóa bỏ chế độ quân quản của Syria tại đây.
Năm 2006, người Nê-pan thực hiệc các hành động bất bạo động để phục hồi lại thể chế dân chủ tại nước mình.
7. Các chính phủ có tính đến ảnh hưởng của những cuộc cách mạng bất bạo động trong các chính sách của mình hay không?
Thường các chính phủ không tính đến ảnh hưởng của các cuộc cách mạng bất bạo động vào những chính sách của mình.
Hồi đầu và giữa những năm 1990, Chính phủ Hoa Kỳ dự tính dựa nặng vào các giải pháp ngoại giao để ngăn chặn việc Slobodan Milosevic can thiệp vào Bosnia. Nhưng cùng lúc đó Hoa Kỳ lại từ chối hỗ trợ cho các tổ chức đối kháng chính trị người Séc-bia vốn đòi dân chủ bằng các phương pháp đấu tranh bất bạo động chống lại Milosevic. Khi Milosevic thực hiện việc thanh trừng sắc tội tại Kosovo, NATO đã thực hiện chiến dịch không kích Séc-bia cho đến khi Milosevic ngưng, nhưng vẫn nắm quyền lực. Cuối cùng vào năm 1999, Hoa Kỳ và các định chế tại Châu Âu mới đưa ra sự hỗ trợ tương đối nhưng tập trung để hỗ trợ các nhóm đấu tranh đòi dân chủ bất bạo động tại Séc-bia, với kết quả là hạ bệ được Milosevic.
Những gì mà thương lượng ngoại giao và không kích không đạt được – xóa bỏ hoàn toàn tình trạng khủng bố trong khu vực do chế độ Milosevic gây ra – thì lại đã đạt được thông qua đấu tranh bất bạo động. Hỗ trợ của Hoa Kỳ và Châu Âu giành cho phong trào đấu tranh dân chủ tại Séc-bia tuy không phải là lý do cơ bản cho thành công, nhưng rõ ràng là có các tác dụng. May mắn thay, nhiều nhà chính trị tại một số quốc gia nay đã nhìn nhận được vấn đề này và thức tỉnh trước thực tế rằng những cuộc đấu tranh bất bạo động lại thường đem lại các kết quả thay đổi dân chủ hữu hiệu, qua đó giúp cho việc bảo đảm nền hòa bình bền vững. Điều này có khả năng sẽ thay đổi bản chất của các hoạt động và chính sách gìn giữ hòa bình trên thế giới.
8. Các chính phủ và tổ chức phi chính phủ có thể làm những gì để hỗ trợ những phong trào bất bạo động?
Chính phủ tại các quốc gia dân chủ và các tổ chức quốc tế cần hình thành một cơ chế tiếp cận đầy đủ và minh bạch để hỗ trợ (nhưng không phải điều khiển hay can thiệp vào) cho các phong trào đấu tranh bất bạo động dân sự. Cấu thành cơ bản của cách tiếp cận này là cần phải giúp cho quá trình:
- Trao đổi quảng bá kiến thức phổ cập cho người dân tại các quốc gia đang còn nằm dưới sự áp chế về   tác dụng của quá trình đấu tranh dân sự và cách mà quá trình này có thể được lên kế hoạch chiến lược thực hiện. Việc này có thể được thực hiện bằng cách hỗ trợ tài chính cho các cố gắng độc lập để có được những công cụ, thiết bị hay đào tạo về đấu tranh bất bạo động giành cho các nhóm đấu tranh.
- Sức ép quốc tế đối với các thể chế độc tài phải được gia tăng đồng thời truyền thông quảng bá thông tin cũng phải được mở rộng. Điều này sẽ giúp tuyên truyền và bảo vệ quyền cho những ai tham gia và những phong trào đấu tranh bất bạo động cũng như những người phải đối mặt với đàn áp tù tội.
9. Vì sao thành công của các cuộc cách mạng bất bạo động chưa được đánh giá cao và áp dụng rộng rãi?

Phần lớn người ta được dậy rằng quyền lực đi từ quyết định của các lãnh đạo chính phủ, tập đoàn kinh tế, hay các tổ chức lớn, hay đi từ những đe dọa sử dụng hay thực tế sử dụng sức mạnh bạo lực. Vì thế người ta thường không hiểu được rằng khi các công dân tại một thành phố, một khu vực hay một quốc gia tổ chức hóa và tập hợp lại thì họ sẽ có khả năng đem lại sức mạnh to lớn và do đó thay đổi đáng kể.
Một số trí sĩ, tổ chức và các thành viên của giới truyền thông luôn đưa ra luận điểm củng cố niềm tin của họ rằng quyền lực chỉ đi từ những lãnh đạo cầm quyền, hay bạo lực, bởi vì đó chính là những gì họ thường xuyên nói và viết tới. Điều này tạo ra sự hiểu lầm rằng hành động bạo lực hay vũ trang của những thành phần cách mạng hay thậm chí những kẻ khủng bố mới là hình thức mạnh mẽ nhất để chống lại sự áp chế. Thực tế là trong vòng 100 năm vừa qua, đã có những kẻ độc tài khát máu hay thậm chí những thế lực quân sự bị vô hiệu hóa hay xóa bỏ bởi những phong trào áp dụng chiến lược bất bạo động.
10. Các phong trào bất bạo động có cần những nhà lãnh đạo thần thánh như Gandhi hoặc Martin Luther King hay không?
Các phong trào bất bạo động không nhất thiết phải được lãnh đạo bởi các nhân vật thần thánh siêu việt như Gandhi hay Martin Luther King, Jr.
Tuy rằng tính chất lãnh tụ có thể là quan trọng, nhưng điều quan trọng hơn nhiều chính là khả năng của bản thân phong trào hay tập hợp lãnh đạo của phong trào có được tư duy chiến lược rõ ràng và đưa ra các quyết định đúng đắn đối với việc thành bại. Ví dụ, những sinh viên Trung Quốc trong nhóm lãnh đạo cuộc biểu tình tại Thiên An Môn trước đây đều có các khả năng cá nhân đáng kể nhưng cuộc đấu tranh của họ bị thất bại vì đã không hình thành được một chiến lược sẽ làm gì khi Chính phủ Trung Quốc từ chối các yêu sách của phong trào.
Đôi khi việc dựa vào một nhân vật mang tính lãnh tụ hay biểu tượng duy nhất lại có hại cho phong trào – vì nếu người lãnh đạo này bị bắt, bị tha hóa, sợ hãi, hoặc đưa ra quyết định sai lầm. Các phong trào thực hiện chính sách ẩn lãnh tụ hay phi tập trung hóa lãnh đạo thường lại có nhiều ưu điểm hơn. Ví dụ, các lãnh đạo phong trào phản kháng Đan Mạch chống lại ách chiếm đóng của Phát xít Đức trong Thế chiến II hoàn toàn giữ danh tính bí mật. Phong trào dân chủ Séc-bia lật đổ Slobodan Milosevic hồi năm 2000 cũng vận hành cơ bản theo phương thức phi tập trung lãnh đạo hóa và thực tế cũng không có cá nhân lãnh đạo chính nổi bật nào.
Sự thành công trong công cuộc lãnh đạo nhân dân Ấn Độ chống ách đô hộ Anh Quốc của Thánh Gandhi thực ra không hoàn toàn dựa vào hình tượng lãnh tụ của ông mà là do những chiến dịch đấu tranh liên tục đã vận động được người Ấn thuộc mọi tầng lớp tham gia để đứng lên làm chủ vận mệnh cuộc sống của mình trong lúc làm giảm dần các giá trị và ích mà người Anh có được khi cố gắng ghìm giữ Ấn Độ làm thuộc địa của mình.
Về trường hợp của Martin Luther King, Jr., thì ông thực sự là nhà hùng biện tài giỏi, nhưng thực tế năng khiếu đó cũng sẽ không có tác dụng nhiều nếu những người tham gia phong trào đấu tranh không nhận thức được rằng người Mỹ gốc Châu Phi cùng những đồng minh trong xã hội của mình cần gây sức ép lên hệ thống phân biệt chủng tộc, trong khi có các hành động để ảnh hưởng tới những lợi ích kinh tế và chính trị đối với hệ thống này. 
Chuyển dịch: Wikibấtbạođộng
Nguồn: International Center for Nonviolent Conflict.

IV)Cách Mạng Bất Bạo Động trang bị vũ khí gì?
Nhiều người lầm tưởng CMBBĐ là không có trang bị vũ khí, thực sự họ phải được trang bị đầy đủ các loại vũ khí như sau:
1-"Những vũ khí bất bạo động là rất quan trọng bởi vì chúng cung cấp cho người ta một sự thay thế", ông nói. "Nếu người dân không có những công cụ này, nếu họ không thể nhìn thấy rằng họ rất mạnh, thì mỗi lần như vậy họ sẽ lại quay về với bạo lực và chiến tranh."
Sau khi cuộc nổi dậy Màu Xanh ở Iran năm 2009 nhiều người trong số những người biểu tình đã bị cáo buoc tại các phiên xử họ đã sử dụng hơn 100 trong số 198 phương pháp của Sharp.

2-   Những vũ khí và kỉ luật bất bạo động

    Cái lỗi lầm chung trong việc ứng biến những chiến dịch thách thức
chính trị trong quá khứ là việc chỉ trông cậy vào một hay hai phương pháp mà thôi, như những cuộc đình công và những cuộc biểu tình quần chúng.
Thực ra thì có rất nhiều phương pháp cho phép các chiến lược gia đối
kháng  tập trung và phân tán đối kháng theo tình thế đòi hỏi.
    Vào khoảng hai trăm phương pháp đấu tranh bất bạo động đã được
nhận dạng, và hẳn là có cả hàng chục phương pháp khác nữa. Những
phương pháp này được sắp xếp thành ba loại chính: phản đối và thuyết
phục, bất hợp tác, và can thiệp. Những phương pháp phản đối và thuyết phục bất bạo động phần lớn là những biểu thị có tính biểu tượng, bao gồm các diễn hành, tuần hành, và đêm không ngủ (54 phương pháp). Bất hợp tác được phân chia thành ba nhóm nhỏ: (a) bất hợp tác xã hội (16 phương pháp), (b) bất hợp tác kinh tế, bao gồm cả những vụ tẩy chay (26 phương pháp) và những cuộc đình công (23 phương pháp), và (c) bất hợp tác chính trị (38 phương pháp). Can thiệp bất bạo động, bằng những phương tiện tâm lí, thể xác, xã hội, kinh tế, hoặc chính trị, như là nhịn đói, chiếm cứ bất bạo động, và chính phủ song hành (41 phương pháp) là loại cuối cùng. Danh mục 198 phương pháp này được đưa vào phần Mục Lục của tài liệu này.
    Việc sử dụng nhiều phương pháp này  được lựa chọn cẩn thận, áp
dụng một cách kiên quyết trên một bình diện rộng lớn, tung ra trong bối cảnh của một chiến lược khôn ngoan và những chiến thuật thích hợp, bởi những người dân được huấn luyện – có thể sẽ gây nên những khó khăn trầm trọng cho bất cứ chính quyền bất hợp pháp nào. Điều này áp dụng cho tất cả mọi nền độc tài.
    Trái ngược với những phương tiện quân sự, những phương pháp đấu tranh bất bạo động có thể chỉ mũi dùi trực tiếp vào những vấn đề tranh chấp. Ví dụ, vì vấn nạn độc tài chủ yếu là chính trị, thì những hình thái chính trị của đấu tranh bất bạo động là thiết yếu. Những hình thái này thường bao gồm sự khước từ tính hợp pháp của những nhà độc tài và bất hợp tác với chế độ của họ. Có lúc thì nấn ná hay trì hoãn có thể được thi hành một cách thầm lặng và ngay cả một cách bí mật, những lúc khác thì bất tuân công khai và những cuộc biểu tình công cộng thách thức và những cuộc đình công được tất cả mọi người đều nhìn thấy.
Sử dụng các phương tiện truyền thông trên Internet là vũ khí của CMBBĐ, áp dụng  198 phuơng thức BBĐ là vũ khí của CMBBĐ, tư tưởng và lý thuyết Bất Bạo Động là vũ khí cho các phong trào đấu tranh giải thể chế độ độc tài.

NHỮNG PHƯƠNG PHÁP ĐẤU TRANH  BẤT BẠO ĐỘNG[xv] (tổng cộng có 198 Phương pháp thi hành CMBBĐ) dùng Internet với các trang Facebook, Paltalk, Twitter,Tin Nhắn, Facetime v.v... để kết nối các chiến hữu với nhau, truyền tải tin tức, tìm hiểu và ứng dụng các phương pháp BBĐ để đi đến thành công.



V-Cách Mạng Bất Bạo Động áp dụng cho Việt Nam:[xvi]   Sau Hoa Lài Tunisie đã có Hoa Sen tại Ai Cập , còn hoa gì sẽ nở tại Việt Nam? Bài bình luận của Long Điền”.










Chủ trương BBĐ phù hợp với tình hình Việt Nam hiện nay. Sự cai trị độc tài, bất lương, bán nước của CSVN đã làm cho toàn dân VN chán ghét đến cùng cực. Thành phần dân chúng muốn lật đổ CSVN rất đông đảo, muốn áp dụng CMBBĐ phải có một lãnh tụ có khả năng kết hợp các tôn giáo, đảng phái, các tổ chức dân sự.[xvii] Trong đó lực lượng CSVN phản tỉnh đã hình thành, nhưng chưa tin tưởng vào một cuộc Cách Mạng vì lo sợ bị trả thù và chưa có đoàn thể nào dung nạp họ trong tinh thần Nhân Bản, Dân Tộc.
Đại đa số quần chúng Việt Nam sở dĩ chưa đồng tâm đứng lên làm một cuộc Cách Mạng Dân Tộc vì họ lo sợ những xáo trộn xã hội, dẫn đến bạo loạn, nội chiến như thời 1945-1975.[xviii]
1-Các bước chuẩn bị cho CMBBĐ tại Việt Nam: Hiện nay lực lượng đối trọng với đảng CSVN còn rất yếu, các tổ chức rời rạc, nhóm đấu tranh, cá nhân đối kháng chưa có tổ chức chỉ đạo chung vì CSVN chủ trương tiêu diệt chống đối từ trong trứng nước, chúng có nhiều kinh nghiệm trong tổ chức quần chúng đấu tranh theo kiểu Chiến tranh Nhân Dân do Cộng Sản Quốc Tế cầm đầu(nay Khối CSQT đã giải thể, tan rả từ khi Biến Động Đông Âu và Khối Sô Viết bị giải thể từ 1989-1991).
2-Chuyển thế: Phong trào đấu tranh (PTĐT) từ các đoàn thể đấu tranh trong nước phải được chuyển thế từ chống đối rời rạc thành những đoàn thể Xã Hội Dân Sự[xix] (XHDS) hợp pháp hoặc bất hợp pháp (không được nhà cầm quyền công nhận). Trong một diễn biến cho thấy sự phát triển của phong trào dân sự tại Việt Nam, một số nhà hoạt động dân chủ đã tập hợp lại trong phong trào có tên là ‘Diễn đàn Xã hội Dân sự’.Diễn đàn này chính thức ra đời vào lúc nửa đêm ngày thứ Hai ngày 23/9 khi bản ‘Tuyên bố về thực thi quyền dân sự và chính trị’ được công bố.Tròn 130 người ký tên vào tuyên bố này đến từ các vùng miền khác nhau của đất nước và cả từ Mỹ, Pháp, Úc. Trong đó có nhiều thành phần xã hội khác nhau như trí thức, cựu quan chức, nhà văn, nhà báo, thanh niên...
Hiện nay các đoàn thể XHDS cũng đã được CSVN ngụy tạo nhiều nhóm và cài người vào các XHDS chính danh nhằm gây chia rẽ, khiến cho các XHDS khó phát triển rộng khắp.
3-Nuôi dưỡng và phát triển đoàn thể XHDS: Hoa Kỳ và các quốc gia Dân Chủ đang yễm trợ sinh hoạt các XHDS khắp thế giới. CSVN đang kêu gọi quốc tế giúp đở để phát triền, xin gia nhập TPP do đó bên ngoài CSVN phải chấp nhận các tổ chức XHDS[xx] theo lối các nước Dân Chủ. Nhưng bên trong CSVN ra sức phá hoại, chia rẽ, cài người xâm nhập vào các tổ chức XHDS[xxi] để các tổ chức nầy hoạt động theo kiểu CSVN mong muốn. Tức là CSVN chỉ công nhận các XHDS nhằm cải tiến xã hội cho tốt đẹp hơn, giảm thiểu các tệ nạn xã hội, cải thiện sinh hoạt, xoá đói giảm nghèo. Nhưng 75 năm kể từ khi có mặt đảng CSVN (1930-2015) và 40 năm sống trong chế độ cai trị của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (1975-2015) toàn dân Việt Nam đã chán ngán những thủ đoạn cai trị tàn ác, dã man, vô nhân đạo của CSVN, những thủ đoạn bán nước cho Trung Cộng đã khiến cho toàn dân nổ lực tranh đấu “Giải Thể CSVN” chứ không trông mong gì cải tổ, sửa chữa chế độ thối nát hiện nay.

Vì thế CMBBĐ để Giải Thể CSVN là xu hướng tất yếu của thời đại hiện nay tại VN.












Nhưng nguyện vọng chính đáng của toàn dân VN là CMBBĐ hay còn gọi Cách Mạng không đổ máu phải được khởi đầu từ các xã hội dân sự. Toàn dân phải được sống và sinh hoạt trong một XHDS cởi mở, tự do, dân chủ thực sự. Toàn bộ CMBBĐ tại VN được thi hành qua 3 Kế Hoạch Ngũ Niên, chia ra 3 giai đoạn như sau:
-Giai đoạn 1:Thời hạn từ 2015-2020 là giai đoạn đầu xây dựng và cũng cố các XHDS[xxii] đã có từ trước. Tổ chức các cuộc sinh hoạt Dân Chủ và tôn trọng Nhân Quyền[xxiii]. Tranh đấu cho các cuộc đàn áp Nhân Quyền, đòi hỏi giải quyết cho các Dân Oan và tù nhân Lương Tâm[xxiv].

-Giai đoạn 2: Thời gian từ 2020 đến 2025 Liên kết các tổ chức XHDS với các tôn giáo[xxv], đoàn thể xã hội, nghiệp đoàn, XHDS với nhau thành khối “Phát Triển Việt Nam” thực sự có Dân Chủ, Tự Do, Tôn trọng Nhân Quyền.
-Giai đoạn 3:  Thời gian từ 2020 – 2025 khi XHDS lớn mạnh và các  Tôn Giáo[xxvi], Nghiệp Đoàn, Đoàn thể xã hội đủ lực đối trọng với nhà cầm quyền CSVN thì sẽ phát động chiến dịch Cách Mạng Bất Bạo Động. Đây là một cuộc Cách mạng thật sự, không có thoả hiệp, cải tổ mà mục tiêu duy nhất là Giải Thể chế độ CSVN bằng biện pháp Bất Bạo Động, không đổ máu.Tuy nhiên nếu nhà cầm quyền CSVN đàn áp thô bạo, dã man thì toàn dân Việt Nam sẽ kêu gọi Liên Hiệp Quốc và các Quốc Gia Dân Chủ phối hợp dẹp tan chế độ độc tài như đã từng xảy ra tại Lybia, Á Rập và Tunisie v.v.. trong những năm 1989-2011.
- Tùy theo tình hình biến động tại Trung Quốc (có thể TQ sẽ tan rả thành 5,7 quốc gia), chiến tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, Nhật, Úc, Ấn Độ và Việt Nam chúng ta có thể lợi dụng thời cơ để nhanh chóng đứng lên Giải Thể chế độ sớm hơn kế hoạch dự liệu. Khi đã dẹp được nội thù là CSVN thì nạn ngoại xâm Trung Cộng sẽ dễ dàng hoá giải vì lúc đó một quốc gia Việt Nam hùng cường, có Đại Đoàn Kết thật sự sẽ làm cho ý đồ xâm lược của TC  nhanh chóng tan biến.





Hình ảnh thủ đô Ai Cập với trên 1 triệu người xuống đường(khác với VN chỉ có vài trăm!!)

Tư tưởng BBĐ của TS Gene Sharp đưa ra rất phù hợp cho hoàn cảnh đất nước Việt Nam, ít nhất đả có 24 cuộc Cách Mạng Bất Bạo Động[xxvii] trên toàn thế giới từ sau 1989 đến nay đã thành công, ngoại trừ một trường  hợp thất bại duy nhất tại Thiên An Môn Trung Quốc. Những thành công vang dội của CMBBĐ đã vang dội khắp hành tinh và nhửng đảng Cộng Sản và các chính phủ độc tài khác rất run sợ trước làn sóng CMBBĐ. Rất tiếc là tại VN thời điểm 1989 khi cao trào Giải thể chủ nghĩa Cộng Sản của 15 quốc gia Đông Âu, khiến cho Liên Xô và 15 quốc gia chư hầu tan rả, chúng ta không phát động được cuộc CM nào vì cái gương trấn áp dã man tại Thiên An Môn đã làm cho nhiều ngưuời lo sợ một cuộc tẩm máu sẽ diển ra tương tự. Đồng thời công cuộc “Đổi Mới” do TBT/CSVN Nguỳễn Văn Linh phát động năm 1986 đã khiến cho nhiều người lầm tưởng CSVN đã sửa sai và sẽ cải tạo xã hội VN theo chiều hướng Dân Chủ. Đó là một dịp may bị bỏ lở, nhưng cũng chưa muộn vì ngày nay CSVN ngày càng tàn ác, những sai lầm trong cai trị, những tệ nạn xã hội tràn lan, những ý thức hệ Cộng Sản lỗi thời bị toàn dân VN chối bỏ càng bộc lộ những khuyết điểm trầm trọng của chế độ phi nhân, phi chính nghĩa phải bị diệt vong đào thải.
Thủ đoạn cai trị của CSVN ngày nay để đàn áp dân chúng ngày một tinh vi, gian trá và dã man hơn xưa vì hầu hết bọn cấp cao trong Bộ Chính Trị và Ban Chấp Hành Trung Ương đảng ra sức vơ vết tài sản quốc gia vào túi riêng. Tài sản cá nhân của một số tên đã lên hàng tỷ đô la và chúng đã khôn khéo tuồn tiền bạc, tài sản ra ngoại quốc vì chúng đã cảm thấy dân chúng ngày càng chán ghét và mong một cuộc đổi đời. Đó là những thuận lợi cho công cuộc đấu tranh đòi Dân Chủ, Tư Do trong nước, kèm theo nhiều xu hướng kết hợp, thống nhất lực lượng Hải Ngoại để mạnh dạn yễm trợ cho CMBBĐ tại Quốc Nội đã được phát động dù CSVN đang ra sức, tung tiền bạc nhằm phá các tổ chức Cộng Động và đảng phái tại Hải Ngoại, vì chúng rất lo sợ sự đoàn kết của toàn dân Việt Nam cùng một lòng lật đổ chế độ.
Tư tưởng và đường lối CMBBĐ của TS Gene Sharp hoàn toàn phù hợp với tính nhân đạo, phi bạo lực của dân tộc Việt Nam. Sau 30 năm chiến tranh thảm khốc của thế kỷ trước (1945-1975) và 40 năm sống trong áp bức độc tài (1975-2015) toàn dân VN hiện nay đang mong mỏi một cuộc đổi đời, một cuộc Cách Mạng không đổ máu, không có chiến tranh tại Việt Nam.
Hoa Kỳ và hầu hết các quốc gia Dân Chủ trên toàn thế giới luôn ủng hộ các cuộc CMBBĐ chống các chế độ độc tài. Liên Hiệp Quốc cững đã từng ra mặt công khai ủng hộ các cuộc Cách Mạng BBĐ tại Tunisie, Lybia và nhiều nơi khác. Xu hướng toàn cầu về Dân Chủ, Nhân Quyền đang thắng thế trên toàn thế giới, những tiến bộ về Khoa Học và Internet đã kéo hành tinh chúng ta thành một “Thực Thể Sống Chung Hoà Bình” trong đó Quyền Con Người phải được tôn trọng.
Tư tưởng CMBBĐ của TS Gene Sharp đã được phổ biến rộng rải trên toàn thế giới qua hơn 30 ngôn ngữ trong đó có Việt Nam. Thành đạt CMBBĐ tuỳ thuộc vào sự quyết tâm của toàn dân Việt Nam và sự vận dụng đúng đắn tư tưởng CMBBĐ của các đoàn thể đang đấu tranh cho Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền tại quốc nội.

VI-Kết Luận:

1-Có vài nghi vấn phải chăng TS Gene Sharp đề ra kế hoạch CMBBĐ là do CIA chủ mưu, tuy nhiên từ chính cá nhân TS Gene Sharp và các cộng sự đã phản đối điều nầy. Các phương tiện báo chí cũng không nêu được bằng chứng cộng tác của TS Gene Sharp với CIA.
2-Có một điều chắc chắn là các thế lực độc tài trên toàn thế giới thảy đều run sợ trước Tư Tưởng Bất Bạo Động của TS Gene Sharp đã kích động thành công các cuộc biểu tình dẹp bỏ chế độ độc tài. Những hoạt động của TS Gene Sharp hoàn toàn vì lý tưởng phục vụ cho Dân Chủ, Tự Do. Những hoài nghi về chủ trường Bất Bạo Động trước sự đàn áp dã man của các chế độ độc tài không đứng vững qua thành tích những thành công vang dội, nhanh chóng, ít tổn hao nhân mạng nhất  của các cuộc Cách Mang trên thế giới. Những hành vi bạo động, khủng bố sát hại hàng loạt như vụ 9/11 diển ra tại Hoa Kỳ đã bị toàn thế giới lên án.[xxviii]
3-Những thủ lĩnh các cuộc Cách Mạng BBĐ đã thành công trên 24 cuộc Cách Mạng khắp thế giới, họ đã gởi thư cảm tạ TS Gene Sharp chứng tỏ tư tưởng CMBBĐ đã thành công mỹ mản. CSVN dù có áp dụng các thủ đoạn tàn ác tiêu diệt các phong trào đấu tranh từ trong trứng nước, những nổ lực đánh phá và gây chia rẽ các đảng phái, tôn giáo trong nước lẫn hải ngoại bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, tàn ác và bằng những khoản tài chánh to lớn nhưng chúng phải khuất phục trước sự Đoàn Kết chống Độc Tài của toàn dân Việt Nam.

Long Điền tháng 9 năm 2015.




[i] http://hoquang.org/2015/05/21/vinh-danh-thanh-gandhi-thuong-tiec-duc-huynh-phu-so-nguyen-rua-ho-chi-minh-ngu-xuan/  TẠI PHI CHÂU: Có khoảng 30 quốc gia đều trở thành độc lập như Algérie, Maroc, Tunisie, Congo, Nigeria, Senegal, Guinea…
[iv] http://www.nguoiviet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=186999&zoneid=471#.VeLi8flViko Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II & sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản quốc tế 
[vii] http://nhipcauthegioi.hu/lich-su/NHA-CACH-MANG-HUNGARY-NAGY-IMRE-VA-HAI-BIEN-CO-LON-CUA-LICH-SU-HUNG-THE-KY-XX-564.html NHÀ CÁCH MẠNG HUNGARY NAGY IMRE VÀ HAI BIẾN CỐ LỚN CỦA LỊCH SỬ HUNG THẾ KỶ XX

[x] http://www.gio-o.com/LyThaiHungDongAu.html Đông Âu bài do Lý Thái Hùng
[xiv] http://vov.vn/the-gioi/ho-so/su-that-ve-cai-chet-cua-gaddafi-va-nhom-tuy-tung-228882.vov Sự thật về cái chết của Gaddafi và nhóm tùy tùng.
[xvii] http://www.machsongmedia.com/chinhtri/vandechinhsach/1009-pho-bien-ke-hoach-5-va-100.html Sau thời gian hoạt động âm thầm, một nhóm anh chị em chúng tôi va hoàn tất giai đoạn 5 năm “chuyển thế” và bắt đầu giai đoạn 5 năm “tạo lc” -- 2 bước lớn trong kế hoạch 10 năm nhằm dân chủ hoá Việt Nam, đồng thời thiết lập nền móng phát triển đất nước cho cả trăm năm sau và gìn gi nền độc lập vĩnh viễn cho nước nhà. Chúng tôi gọi tắt giai đoạn 5 năm còn lại là kế hoạch “5 & 100”. Nay đã đến lúc phổ biến kế hoạch này.

[xviii] http://vietpho.com/saigon_bao.php?id=797 Để tìm hiểu sự thật lịch sử về cuộc chiến 30 năm từ 1945-1975, tác giả Long Điền cho ra mắt quyển sách “ Cuộc Chiến Việt Nam 1945-1975” đáp ứng nhu cầu cho những ai quan tâm đến lịch sử, đất nước và con người Việt Nam.
[xix] http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2013/09/130923_civil_society_declaration Trong một diễn biến cho thấy sự phát triển của phong trào dân sự tại Việt Nam, một số nhà hoạt động dân chủ đã tập hợp lại trong phong trào có tên là ‘Diễn đàn Xã hội Dân sự’.
[xx] https://anhbasam.wordpress.com/2014/05/19/2563-tuyen-bo-cua-20-to-chuc-xa-hoi-dan-su-doc-lap-ve-viec-dan-ap-va-bat-giam-nguoi-bieu-tinh-yeu-nuoc/  Tuyên bố của 20 tổ chức xã hội dân sự độc lập về việc đàn áp và bắt giam người biểu tình yêu nước
[xxi] http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2014/09/140915_xa_hoi_dan_su_vietnam_forum Ở Việt Nam hiện nay đang có hàng trăm các hội đoàn, nhưng tất cả đều nằm trong sự quản lý của cái gọi là Mặt trận Tổ quốc.
[xxii] http://lacvietnews.com/detailbl.php?subaction=showfull&id=1430424750&archive=&start_from=&ucat=2&  Hội Nghị Xã Hội Dân Sự Vùng Ðông Nam Á 2015 Asean Civil Society Conference – ACSC 2015 April 21-24, 2015 Kuala Lumpur Malaysia Lạc Việt Như quý vị biết, hằng năm Hiệp Hội Các Quốc Gia Ðông Nam Á thường xuyên tổ chức một Hội Nghi rất có bề thế đó là Hội Nghị Xã Hội Dân Sự Ðông Nam Á
[xxiii] http://lacvietnews.com/detailbl.php?subaction=showfull&id=1440741201&archive=&start_from=&ucat=2& 12 điểm của Lực Lượng Chính trị quần chúng Việt-Nam đối kháng với chế độ CSVN
[xxiv] http://lacvietnews.com/detailbl.php?subaction=showfull&id=1416376608&archive=&start_from=&ucat=2&  Tù Nhân Lương Tâm LM Nguyễn Văn Lý được LS Nguyễn Hữu Thống Chuyể Hồ Sơ Lên Hội Ân Xá Quốc Tế
[xxv] http://www.hdgmvietnam.org/fabc-hoi-nghi-doi-thoai-dai-ket-va-lien-ton/651.63.8.aspx Hội nghị Đối thoại Đại kết và Liên tôn tại Bangkok từ ngày 22 đến 25 tháng 07 năm 2009
[xxvi] http://quyenduocbiet.com/a642/khang-thu-cua-hoi-dong-lien-ton-viet-nam-ve-du-thao-4-luat-tin-nguong-ton-giao-2015 Kháng thư của Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam về Dự thảo 4 Luật Tín ngưỡng Tôn giáo 2015
[xxvii] http://www.freevietnews.com/audio2/index.php?subaction=showfull&id=1305184559&archive=&start_from=&ucat=  Sau những cuộc cách mạng Bông Hồng đến Hoa Nhài, từ Tunisia, Egypt, Libya, bây giờ đang chuyển về Á Châu, hãy nhìn những đốm lửa từ Bangladesh, Burma, và đang nhen nhúm ở Tân Cương Tây Tạng.
[xxviii]   https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_11_th%C3%A1ng_9 Vụ tấn công tạo ra những phản ứng khác nhau trong nền chính trị toàn cầu. Phản ứng của các chính phủ và phương tiện truyền thông trên khắp thế giới là gay gắt lên án hành động khủng bố, với những hàng tít trên nhật báo Pháp Le Monde, tóm lược thái độ đồng cảm của quốc tế: "Ngày hôm nay Tất cả chúng ta đều là người Mỹ", và hàng triệu người trên thế giới tổ chức thắp nến tưởng niệm nạn nhân.


Không có nhận xét nào: