Trong tình thế hiện tại đấu tranh với bạo quyền CSVN chúng ta phải chọn lựa thái độ và phương cách nào ?
I)Chọn lựa thái độ đấu tranh và phương cách đấu tranh :
Một số định nghĩa :
-nhà tranh đấu:là người đề ra và chỉ đạo mọi biện pháp và phương tiện để thắng đối phương giành thắng lợi hay đạt mục tiêu mình mong muốn.Nhà tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ là người đề ra chủ trưong đánh đổ Dân Chủ giả hiệu hiện nay của CSVN để đem lại được Tư Do ,Dân Chủ thật sự cho Dân Tộc VN. Ðấu tranh hiện nay phải là thắng hoặc thua chớ không có thỏa hiêp những điều áp đặt vô lý của CSVN đề ra.(a freedom fighter) ví dụ : những nhà tranh đấu thuộc khối 8406 đòi hỏi dẹp bỏ chế độ cầm quyền hiện nay.
-Nhà bất đồng chính kiến ,nhà đối lập, đối kháng :là những người chống lại chủ trương của chính phủ, đảng phái đưa ra theo khuôn khổ luật pháp cho phép.(a dissident). Ví dụ : Ðảng Dân Chủ đối lập với đảng Cộng Hoà tại Quốc Hội Hoa Kỳ trong đường lối đối ngoại, những nhà đối lập cuội chủ trương Cải lương đảng CSVN.
2- Mục tiêu đấu tranh hiện nay của toàn dân VN trước sự cai trị độc tài và dốt nát của đảng CSVN trong suốt 62 năm qua (từ 1945 đến 2007) và kể từ khi chúng cưởng chiếm Miền Nam VN trong 32 năm qua (từ 1975- đến 2007) khiến cho tình trạng xã hội ngày càng sa đọa,phi đạo đức ,tham ô,tham nhũng là 1 quốc nạn,không còn thời gian hay biện pháp nào khác là giải thể toàn diện chế độ hiện hữu để thiết lập một chế độ Ða Nguyên Ða Ðảng,Dân Chủ,Tư Do ,Công Bằng và Ðạo Lý ,Nhân Bản trước Thiên Niên Kỷ mới.Những nhượng bộ đất đai,bán đất, bán biển cho Trung Cộng là 1 hiễm họa của toàn dân VN còn nghĩ đến tiền đồ Dân Tộc.Không có một con đường nào khác là phải giải thể chế độ độc tài ngự trị hơn nửa thế kỷ qua, không có hoà giải với bè lủ bán nước.Sau khi có Hiến Pháp mới toàn dân Việt sẽ chọn 1 chế độ thích hợp với Dân Tộc Việt Nam sao cho xứng đáng trong vùng Ðộng Nam Á và thế giới.
II)Chọn lựa phương cách đấu tranh:
Trong lịch sử dựng nước và giử nuớc trải qua hơn 4000 năm chúng ta đã từng chứng kiến những cuộc biến động ,lật đổ khi 1 triều đại đứng đầu là vị Quân Vương tỏ ra yếu hèn trước quân ngoại xâm như Mạc Ðăng Dung thế kỷ 16,Lê Chiêu Thống thế kỷ 18 (1786-1789) (http://www.vnn-news.com/article.php3?id_article=874 trong nhận định cuả sử gia Trần Gia Phụng.)Nhung có 1 điều nghịch lý là trong lịch sử nước ta chưa có 1 triều đại nào tham tàn và bạo ngược,mất đạo lý mà lại được tồn tại lâu như vậy!Tại vì CSVN khởi đầu do Hồ Chí Minh mang chủ nghiã ngoại lai vào VN,bằng phương thúc dối gạt, đổi trắng thay đen,lừa phỉnh bằng bánh vẻ trong phong trào đấu tranh của Dân Tộc chống Thực Dân Pháp , đảng CSVN và đồng bọn đã lừa gạt để người dân tưởng là chúng tranh đấu cho Tự Do Dân Tộc.Thực ra chúng chỉ đấu tranh cho quyền lợi của Quốc Tế Vô Sản, cũa QT Cộng Sản mà thôi !Cú lừa vĩ đại nầy đã khiến cho Dân Tộc VN lạc hậu và tụt lùi nhiều thập kỷ so với các nước vùng ÐNÁ và gây cảnh điêu linh sau khi khiến 4 triệu con dân VN chết thảm thương khi lao vào 1 cuộc nội chiến do CSVN dàn dựng và CSQT giật dây.Một cuộc chiến dai dẳng từ 1945-1975 mà theo các nhà nhận định trong nước và quốc tế cho là không cần thiết và phải tốn nhiều xương máu như thế so với các nước tranh đấu giành Ðộc Lập chủ quyền trong thập kỷ 40,50trên toàn thế giới!
Hiện nay trên thế giới vẫn đang diển ra những cuộc tranh đấu chống bạo quyền,nhưng chủ yếu có 3 hình thái hay còn gọi là 3 phương thức đấu tranh như sau :
1 Phương Thức Bạo Ðộng ,khũng bố.
2-Phương thức vỏ trang lật đổ.
3-Phương thức Bất bạo động với 5 dạng khác nhau.
1-Phương thức đấu tranh bạo động, khủng bố:phải công nhận 1 điều thực tế là CSVN thuộc hàng bậc thầy về đấu tranh bạo động và khủng bố . Ðiều hành những cuộc chiến kiểu nầy thời giam gần đây đã có ở Afganistan ,Iraq và 1 số nước Hồi Giáo có lẻ họ học hỏi từ cuộc chiến VN, đó là 1 điều bất hạnh cho xứ sở họ !Thật vậy không nên ca ngợi những cuộc khủng bố vì đây là hình thái xấu nhất cho những mục tiêu tranh đấu. Ðơn cử lịch sử toàn thể đất nước VN trước khi có đảng CSVN tay sai cho CSQT thì chúng ta vẫn có những phong trào đấu tranh giành Ðộc lập trong thời Pháp thuộc,nhưng chưa bao giờ có những vụ khũng bố ghê rợn,man dại như thời CSVN .Năm 1945 Phong trào Thanh Niên Tiền Phong dùng bao bố để bắt và giết Việt gian ,hình thức chạt đầu mổ bụng, đâm bằng tầm vong vạt nhọn rồi đạp xuống song nhiều đến độ mà sau đó không ai dám ăn cá tôm vì có quá nhiều thây ma (thằng chỏng) chết trôi trên các con sông của mọi miền đất nước. Ðiều nấy CSVN học được từ thầy dạy cuả chúng là Liên Sô đả giết hại 60 triệu dân của nước họ trong thời gian cai trị 70 năm dưới ách cai trị của loài Quỷ Ðỏ. Ví dụ điển hình là vụ khủng bồ đặt mìn trên chiếc du thuyền Bạch Tuyết trên cột cờ Thủ Ngử (Bến Bạch Ðằng )khoản năm 1965 chỉ có 2,3 người Mỹ chết còn hàng trăm người chết thảm thương là người Việt đầu đen máu đỏ. Thế mà CS giờ nầy vẫn còn ca ngợi chiến công lẩy lừng của Ðặc Công nội thành với thành tích giết đồng bào mình.Vì là du thuyền chở người đi chơi trên sông Saìgòn đâu có ai bão vệ làm gì,không ngờ CS lại dả tâm đến thế là cùng.Còn hàng ngàn vụ giật mìn xe đò dân sự,xe lam ở khắp mọi nơi trước 1975 cũng là chiến tích lẩy lừng của CS. Ðâu có khác gì hành động khủng bố của phe Hồi Giáo quá khích bây giờ đâu.Trong suốt thời gian từ 1968 đến 1972 CSVN đã pháo kích hàng ngàn vụ vào Sài Gòn ,các tỉnh lỵ,các đô thị đông dân của Miền Nam bằng súng cối 82ly.hoả tiển 107,122 ly “made in” USSR(Liện Xô),ai chết thì ta đã rỏ. Trong suốt 4 năm trường chỉ có 2 lần CS pháo trúng vào hàng rào của dinh Ðộc Lập,3 lần vào sân bay Tân Sơn Nhất còn bao nhiêu trăm,ngàn vụ thì người dân VN hưởng đủ.Bây giờ mà thử có vụ pháo kích nào vào Saì Gòn giết hại thường dân thì dân Sài gòn sẽ chưởi kẻ ác ôn cở nào mà ác dử vậy !Các bạn có biết sai số kỷ thuật của hoả tiển 122 ly khi để trên cái giàn biến chế bằng tre của Việt Cộng thời đó nó sai lệch cở bao nhiêu không? Xin thưa là sai số 2.000 mét .Có nghiả là muốn bắn vào dinh Ðôc Lập thì 95% nó sẽ rơi cách đó 2 cây số! Chuyện bi thương thời chiến là năm 1973 Việt Cộng định pháo vào phi trường Biên Hoà nhưng vì sai số kỷ thuật hôm đó nó rơi vào “Trung tâm Giam Giử Tù Binh Phiến Cộng” gần ngả tư Suối Máu Biên Hoà làm chết mấy chục tên VC ác ôn .Thật là gậy ông đâp lưng ông!Nhưng với thú tính của người CS thì họ vẫn làm suốt cuộc chiến 1954-1975 ! Chiến tranh mà ! Riêng phiá QLVNCH mà pháo binh lở bắn sai mục tiêu vì lý do kỷ thuật (thuốc bồi ẩm ướt v.v..) thì cấp chỉ huy và người thừa hành bị kỷ luật tối đa.Tại sao có sự khác biệt như vậy ! Vì một bên là có kỷ cương tri thức lấy dân làm chính,còn bên kia dân chết mặc bây miển là họ làm tròn trách nhiệm với chỉ thị của Liên Sô,Trung Cộng là đủ rồi.Thới đại nầy mà dính vào bạo động ,hoặc khủng bố là bị khai trừ và lên án.
2) Phương thúc đấu tranh lật đổ chính quyền bằng vỏ trang: đây là hành động có tính chuyên môn,có nguyên tắc tham mưu đầy đủ .Chủ yếu là phải hội tụ đủ các yếu tố can bản như khu tự trị, kế đến phải nói là có một ngân khoản thật lớn , mật khu hoặc khu an toàn để tập trung tiếp liệu,trang bị ,bổ sung quân số.Nguồn mua vỏ khí là cực kỳ khó khăn vì nếu không có nguồn cung cấp thì dù có tiền vẫn không mua được vủ khí ! Xu thế của thế giới toàn cầu ngày nay không ủng hộ cho cuộc chiến tranh vỏ trang để giành chính quyền dù đó là chính quyền CS. Ðiều mà thế giới hiện nay quan tâm là dẹp các điểm nóng do các nhóm khủng bố Hồi giáo gây ra tại một vài nơi ở Trung Ðông và nay đang lan dần ra vùng Ðông Nam Á (Thái Lan ) và Thái Bình Dương (Indonésia)
Hơn nửa Việt Nam qua hơn 60 năm chiến tranh dai dẳng người dân đã ngấy đến tận cổ rồi. Ngày nay đừng hòng quyến rủ được ai nghe theo hình thức bạo động và vỏ trang lật đổ như thời Việt Minh 1945.
3) Phương Thức đấu tranh bất bạo động: Qua 2 dẩn chứng vừa kể tôi đã chứng minh với các bạn là lật đổ 1 bạo quyền bằng Bạo Ðộng hoạc bằng vỏ trang là không thành công và không được thế giới ủng hộ,vậy ta thử xét đến giải pháp thứ 3 là Ðấu tranh Bất Bạo Ðộng. Trong lịch sử thề giới có nhiều hình thức lật đổ chính quyền bằng đấu tranh bất bạo động. Ở đây chùng ta chỉ phân tích vè những phong trào đấu tranh BBÐ có tầm vóc lớn và xem xét chúng đã đem lại những kết quả hoặc thất bại ra sao.
Ðịnh nghiả( Nonviolent resistance (or nonviolent action) is the practice of applying power to achieve socio-political goals through symbolic protests, economic or political noncooperation, civil disobedience and other methods, without using violence.) Đấu tranh bất bạo động (đấu tranh bất bạo động được biết tới như sức mạnh nhân dân, thách thức chính trị hoặc kinh tế và cách mạng bất bạo động) là một phương pháp đấu tranh sử dụng hình thức phản đối đặc trưng, bất hợp tác và thách thức, nhưng không dùng bạo lực, để tạo ra sức mạnh trong các cuộc xung đột.
Nhận định thành công và thất bại của 5 phong trào đấu tranh bất bạo động đã xảy ra trong thế kỷ 20 trên toàn thế giới như:
a)Phong trào đấu tranh BBÐ tại Ấn Ðộ giành độc lập từ thực dân Anh (1914-1947)
http://www.lamvuon.net/Gandhi-va-Tu-Tuong-Bat-Bao-ong-t429.html :
“ Nhà cách mạng Ấn Ðộ Mahatma Gandhi (1869-1948) Dân tộc Ấn Ðộ tôn Gandhi thành vị ‘Thánh’ (Mahatma) cứu tinh của họ; trong khi đó, nhiều văn hào và sử gia như Romain Rolland, Wille Durant so sánh tư cách cao thượng, giản dị, đức hy sinh, lòng dĩ đức báo oán của ông như Jêsus - người khai sinh ra Thiên Chúa giáo Tây phương.
Trong lãnh vực quốc trị, khi luật pháp của chính quyền thiếu công bằng, người dân có nhiệm vụ vạch ra các lỗi lầm để chính quyền sửa đổi. Tuy nhiên, khi chính quyền không chịu sửa đổi lỗi lầm thì sách lược bất bạo động đòi hỏi người dân phải chấp nhận hy sinh để chống lại những bộ luật sai trái bằng hành động vi phạm luật pháp một cách bất bạo động và yêu cầu được xử phạt nặng nhất. Người đứng bên ngoài có thể xem việc cố ý vi phạm những luật lệ bất công là trọng tội, nhưng đây là phương pháp sử dụng tình thương để thay đổi các chính sách bất công. Kẻ nắm độc quyền sinh sát trong quốc gia có thể đưa ra pháp luật và không tuân theo tinh thần luật pháp cũng như trốn tránh hình phạt khi phạm luật, nhưng chiến lược bất bạo động bắt buộc người theo nó phải chấp nhận - chứ không chạy trốn - các hình phạt thảm khốc đến từ hành động vi phạm luật pháp bất công.
Gandhi chủ trương là con người phải tôn trọng luật pháp. Nhưng khi đối đầu với luật lệ bất công, sai trái với lương tâm, con người chấp nhận hy sinh để không thi hành luật lệ đó; và nếu sự bất tuân đó sẽ dẫn đến hình phạt thì con người phải chấp nhận hình phạt một cách tự nguyện để chứng tỏ với chính quyền sự phản kháng kịch liệt của mình đối với luật lệ sai trái.
Cách mạng bất bạo động không phải là một sách lược cướp đoạt chính quyền mà là một sách lược chuyển hóa các tương quan trong xã hội và kết thúc bằng cuộc thuyên chuyển quyền chính trị một cách hòa bình. Gandhi biết là tiến trình bất bạo động có vẻ chậm chạp vô cùng, nhưng ông quả quyết rằng ‘kinh nghiệm dạy cho tôi biết rằng đó là phương pháp chắc chắn nhất để đạt đến mục đích chung.’
Gandhi từng tiếp xúc với phong trào Cộng Sản và cảm thấy rằng nó không giải quyết được các vấn đề quốc gia cũng như khiến cho con người bị rơi vào vòng nô lệ mới của Moscow sau khi vượt khỏi cái hố nô lệ thuộc địa. ‘Tôi có nhiều bạn trong giới Cộng Sản. Một số được coi như là con trai của tôi. Nhưng họ có vẻ không biết phân biệt giữa sự công bằng và sự điên rồ, sự thật và giả dối... Họ hình như nhận lệnh thẳng từ Nga Sô, một đất nước được họ xem như là tổ quốc tinh thần thay vì (quốc gia của họ). Tôi không thể chấp nhận tình trạng lệ thuộc một thế lực bên ngoài.’
Tựu trung, cơ chế quốc gia trong nhãn quan của Gandhi là một cơ chế chính trị dân chủ mà trong đó mọi người đều bình đẳng như nhau và có đầy đủ quyền tự do phát triển khả năng cá nhân. Chính quyền phải chăm lo cho đời sống của nhân dân, thay vì thiểu số liên hệ đảng phái cầm quyền.
Không một đảng phái nào có thể ảnh hưởng cơ chế chính phủ lâu dài, và nhân dân có quyền thay đổi chính phủ khi họ bất tín nhiệm chính phủ. Chính quyền phải chú tâm nâng cao đời sống của nhân dân và phải quản trị đất nước theo ý dân nhằm bảo vệ sự tự do của nhân dân. Quốc gia không thể đạt được độc lập, tự do và hạnh phúc thực sự khi mà người dân bị chính quyền đàn áp dã man bởi vì họ dám can đảm đưa ra những ý kiến khác với đường lối ‘chung’ của thành phần lãnh đạo quốc gia.
Mặc dù sự đàn áp tàn nhẫn này mang đến một trạng thái trật tự tương đối tại Ấn Độ cuối năm 1943, nhưng phong trào "Rời Ấn Độ" đã thành công với những mục tiêu của nó. Khi chiến tranh chấm dứt, người Anh đã đưa ra những dấu hiệu rõ ràng là quyền cai trị sẽ được chuyển đến tay Ấn Độ. Gandhi đình chỉ cuộc đấu tranh, những người lĩnh đạo Quốc hội và khoảng 100.000 người tù chính trị được thả. Sau 90 năm phấn đấu, tự do giờ đây nằm trong tầm tay Ấn Độ.”
Cuối cùng chúng ta nhận thấy chủ trương Bất bạo động cuả ông Gandhi đã đem lại thành công trong việc giành lại được Ðộc Lập cho Ấn Ðộ mà không cần phải tổ chức bạo động hoặc vỏ trang lật đổ, ưu điểm của đường lối nầy là không phí phạm sinh mạng quá đáng như một cuộc chiến có vỏ trang.Tuy nhiên nhược điểm của chủ trương nầy là thời gian tranh đấu kéo dài quá lâu ( 33 năm ).
b) Phong trào đấu tranh Bất bạo động tại Trung Quốc dưới sự cai trị của đảng Cộng sản Trung Hoa: http://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_Thi%C3%AAn_An_M%C3%B4n
“Cuộc biểu tình ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989, cũng được biết đến với cái tên vụ Thảm sát quảng trường Thiên An Môn, Cuộc xô xát ngày 4 tháng 6, hay Tình trạng náo động từ mùa Xuân tới mùa Hè năm 1989 theo chính phủ Trung Quốc, là một loạt những vụ biểu tình do sinh viên, trí thức và những nhà hoạt động công nhân lãnh đạo ở Cộng hoà nhân dân Trung Hoa từ 15 tháng 4, 1989 và 4 tháng 6, 1989, (theo chính quyền Trung Quốc) đã khiến từ 400 đến 800 dân thường thiệt mạng, và từ 7,000 đến 10,000 người bị thương. Một báo cáo ban đầu từ các bệnh viện địa phương đưa ra con số khoảng 2,000.
Vụ xô xát được đặt tên theo vị trí diễn ra sự đàn áp phong trào ở Quảng trường Thiên An Môn, Bắc Kinh của Quân đội giải phóng nhân dân. Những người biểu tình thuộc nhiều nhóm khác nhau, từ các trí thức tin tưởng rằng chính phủ do Đảng cộng sản lãnh đạo quá tham nhũng và hà khắc, tới những công nhân thành thị tin rằng cải cách kinh tế Trung Quốc đã đi quá xa dẫn tới lạm phát tăng cao và tình trạng thất nghiệp lan tràn đe doạ cuộc sống của họ.
Sau khi những người biểu tình bất chấp kêu gọi giải tán của chính phủ, một sự chia rẽ xảy ra bên trong Đảng cộng sản về việc giải quyết vấn đề với những người biểu tình theo cách nào. Trong những nhóm đang tranh cãi nhau, một phe cứng rắn nổi lên và quyết định đàn áp cuộc biểu tình, và không cần để ý tới những yêu cầu của họ.
Ngày 20 tháng 5 chính phủ tuyên bố thiết quân luật và vào đêm ngày 3 tháng 6, sáng ngày 4 tháng 6, xe tăng và bộ binh quân đội được gửi tới quảng trường Thiên An Môn để tiêu diệt phong trào và giải tán những người biểu tình. Những ước tính về con số thiệt mạng dân sự từ: 400-800 (CIA), 2600 (Chữ thập đỏ Trung Quốc), và một nguồn chưa được xác định khác là 5000. Số người bị thương từ 7,000 đến 10,000. Tiếp sau cuộc bạo lực, chính phủ tiến hành nhiều cuộc bắt giữ để đàn áp những người ủng hộ phong trào, cấm đoán báo chí nước ngoài và kiểm soát nghiêm ngặt việc đưa tin các sự kiện của báo chí Trung Quốc. Cuộc đàn áp bằng bạo lực đối với những người biểu tình ở quảng trường Thiên An Môn đã gây nên sự chỉ trích rộng rãi của quốc tế đối với chính phủ PRC tức là Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa.”
Cuộc thảm sát lớn nhất thế giới nầy xảy ra vào cuối thập kỷ 80 trong 1 chính quyền do đảng CS Trung Hoa chỉ huy, đã khiến cho cả thế giới xúc động. Không có tài liệu nào cho biết có phải tác động của vụ Thiên An Môn tháng 4/1989 ở Trung Quốc đã tác động như một ly nước tràn khiến cho toàn bộ các quốc gia CS ở Châu Âu đã nhận được tín hiệu về sự tàn ác của CNCS để rồi 2 tháng sau tháng 6/1989 đã kéo theo hàng loạt các nước CS Ðông Âu bị sụp đổ nhanh chóng như một bộ phim giả tưởng!Tuy rằng cuộc đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ tại Bắc Kinh chưa thành công mà trái lại còn gây ra cảnh hãi hùng in đậm lên dân tộc Trung Hoa y hệt như hành động bạo ác của 1 vị hoàng đế thời thượng cổ Trung Hoa là Tần Thuỷ Hoàng.Tuy nhiên hậu quả của nó rất to lớn và không phải chỉ dừng lại ở trong TQ mà nó còn lan rộng ra toàn thể thế giới cho những ai còn quan tâm đến sự cai trị độc tài phải thấy đó là ánh chớp báo tử cho những chế độ CS độc tài(4 Quốc gia còn sót lại :Trung Quốc,Việt Nam,Cu Ba,Bắc Hàn) còn tồn tại trên hành tinh nầy trong thiên niên kỷ mới.
c) Ðấu tranh bất bạo động ở Tây Tạng : http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2y_T%E1%BA%A1ng
Cuộc đấu tranh dành Ðộc Lập và Dân Chủ Tự Do ở Tây Tạng ít được thế giới phuơng Tây chú ý vì Tây Tạng ngày nay trước kia là 1 quốc gia độc lập có chủ quyền,nay bị sáp nhập vào Trung Quốc .Một đất nước mà cách đây mấy thập kỷ người ta còn dùng danh từ “Bức màn sắt” để gọi chế độ bưng bít thông tin đại tài,ngay cả người dân trong cùng 1 xả mà cách nhau 2,3 cây số thì không biết gì ở làng bên cạnh! Ðất nước thì kém phát triển,chế độ thì lại độc tài,khép kín ,thành ra thế giới ít biết về đời sống đau khổ của 1 dân tộc nhỏ bé bị cai trị hà khắc họ phải tranh đấu ra sao?
“Tây Tạng (tiếng Tây Tạng: Bod hay pö theo cách nói vùng Lhasa; chữ Hoa: 西藏) nguyên là một lãnh thổ và là một quốc gia độc lập ở Trung Á và là nơi cư trú của người Tây Tạng. Với độ cao trung bình vào khoảng 4.900 m, vùng đất này thường được gọi là 'Nóc nhà của thế giới'. Tất cả hay hầu hết Tây Tạng (tùy theo cách định nghĩa) ngày nay chịu sự kiểm soát của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH).
Khi Chính quyền Tây Tạng lưu vong nhắc đến Tây Tạng có nghĩa là họ nói đến một lãnh thổ rộng lớn đã tạo nên nền văn hóa Tây Tạng trong nhiều thế kỷ, bao gồm các địa phận truyền thống là Amdo, Kham (hay Khams), và Ü-Tsang (Dbus-gtsang), nhưng không kể đến các vùng bên ngoài CHNDTH như là Arunachal Pradesh, Sikkim, Bhutan và Ladakh mà các vùng này cũng hình thành một phần của không gian văn hóa Tây Tạng. Mặt khác, CHNDTH xác nhận quyền cai trị Tây Tạng là hợp pháp, bởi cho rằng Tây Tạng đã là phần không thể chia cắt của Trung Hoa từ thời Mông Cổ (nhà Nguyên) 700 năm trước, tương tự các quốc gia khác như là Vương quốc Đại Lý và Đế chế Tây Hạ cũng đã sát nhập vào Đế chế Mông Cổ ở thời điểm đó và vẫn còn thuộc về Trung Hoa cho đến ngày nay. CHNDTH khẳng định rằng tất cả các kết quả cai trị của các chính quyền người Hoa về sau cho đến thời CHNDTH, tiếp tục thành công.”
Các nguồn tin dưa ra về số người Tây Tạng bị giết từ 1950 rất khác nhau. Con số ước tính thấp nhất là của Warren W. Smith làm từ các báo cáo dân số cho là vào khoảng 200,000 người Tây Tạng đã mất tích . Con số cao nhất được đưa ra của sách đen về chủ nghĩa cộng sản là 2,4 triệu.
Chính phủ Tây Tạng lưu vong cho rằng hàng triệu người Trung Hoa nhập cư vào vùng tự trị Tây Tạng là để đồng hóa người Tạng thông qua văn hóa và thông qua các cuộc hôn nhân dị chủng. Các nhóm Tạng lưu vong cho rằng mặc dù có nổ lực bề ngoài để phục hồi văn hóa nguyên thủy Tây Tạng để thu hút khách du lịch, thì lối sống truyền thống Tây Tạng bây giờ đã hoàn toàn bị thay đổi.Ngày nay người ta thường theo dỏi công cuộc đấu tranh dành tự do và độc lập của nhân dân Tây Tạng qua các hoạt động của đức Ðạt Lai Lạt Ma thứ 14, là nhà lãnh đạo thế quyền và giáo quyền của nhân dân Tây Tạng.Vào ngày 17 tháng 11 năm 1950, Đạt-lại Lạt-ma 14 đã khoác lên mình một trọng trách là người lãnh đạo thế quyền của người dân Tây Tạng (head of the State and Government) sau khi có khoảng 80.000 quân lính của Trung Quốc tấn công vào Tây Tạng.
Năm 1954, Ðạt Lai Lạt Ma đã đến Bắc Kinh để thương thuyết hòa bình với chủ tịch Mao Trạch Đông và những nhà lãnh đạo Trung Hoa khác, gồm Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán trong chuyến đi này không mang lại kết quả, cuối cùng Sư đã quyết định muốn cứu vãn cho Tây Tạng, đành phải ra nước ngoài Nỗ lực mang lại một giải pháp hòa bình của Sư cho người dân Tây Tạng đã bị cản trở bởi một chính sách tàn bạo của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Cũng trong lúc đó, tại miền Đông Tây Tạng, dân chúng đã đứng lên kháng cự mạnh mẽ chống đối sự đàn áp của Trung Hoa. Sự kháng cự này đã lan ra trên nhiều tỉnh thành của Tây Tạng. Vào ngày 10 tháng 3 năm 1959, một cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử của Tây Tạng tại thủ đô Lhasa để kêu gọi binh lính Trung Quốc phải rút khỏi Tây Tạng và tái xác định rằng Tây Tạng là một quốc gia độc lập. Cuộc biểu tình ôn hòa này đã bị bẻ gãy một cách mỹ mản trước quân đội điên cuồng của Hoa lục. Kết quả của cuộc xâm lăng này đã giết chết hàng triệu người Tây Tạng vô tội và phá hủy 6 triệu chùa chiền tại đất nước này. Để tìm con đường giải phóng nỗi khổ đau ấy, 80.000 người dân Tây Tạng cùng với Đạt-lại Lạt-ma 14 vượt qua dãy Hy Mã Lạp Sơn để đến tị nạn tại miền bắc Ấn Độ vào năm 1959. Chính phủ lưu vong của Tây Tạng hiện đang được tiếp tục lưu trú tại Dharamsala, Bắc Ấn Độ.
http://www.quangduc.com/triet/47vkgiaodieu3.html Trả lời trong một cuộc phỏng vấn Ðức Ðạt Lai Lạt Ma 14 năm 2002 :
Thưa Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Ngài đã từng lên án Trung Cộng tìm đủ mọi cách để huỷ diệt nền văn hoá Tây Tạng. Họ đã thực hiện điều đó như thế nào và theo ý kiến của Ngài liệu họ có đạt được mục tiêu đó hay không?
“Kể từ khi xâm chiếm Tây Tạng, bốn mươi năm trước đây, cho đến nay Trung Cộng đã sử dụng đủ mọi phương thức ở trong nhiều thời điểm khác nhau. Trong những năm giữa thập niên năm mươi, họ đã cho hủy diệt hầu hết các tu viện chùa chiền, loại trừ các thành phần trí thức, cư sĩ trung kiên, cũng như tăng sĩ bằng cách bỏ tù, tập trung lao động cải tạo kể cả hành quyết họ trước công chúng. Rồi đến thời Cách Mạng Văn Hóa; mà tôi nghĩ là mọi người đều biết rõ những việc mà họ đã làm. Cuối cùng là cả một chiến dịch tuyên truyền bôi nhọ cho rằng văn hóa của Tây Tạng là lạc hậu, đen tối, ác độc và vô giá trị, tất cả những gì thuộc về Tây Tạng đều là thứ vô dụng, chẳng có gì để phải quan tâm. Tôi nghĩ là bây giờ họ không còn sử dụng các phương sách này nữa.
Kể từ giữa thập niên tám mươi, Trung Cộngï đã bắt đầu đổi giọng và chính thức tuyên bố rằng văn hóa Tây Tạng là một nền văn hoá cổ truyền, có giá trị lớn, cần phải được bảo tồn, đó là phương thức mà họ đang sử dụng hiện nay. Họ cũng đã cho dựng lên những bảng khẩu hiệu bằng tiếng Tây Tạng dọc theo đường phố và ngay cả ra lệnh cho người Trung quốc sinh sống tại đây học tập ngôn ngữ Tây Tạng. Tuy nhiên đây chỉ là bề mặt, trong thực tế họ ra sức tăng cường ảnh hưởng của Trung quốc cụ thể qua học vấn và thi cử, những kiến thức liên quan đến Trung quốc mới là trọng tâm. Cũng xin được lưu ý rằng giảng khoá liên quan đến truyền thống Tây Tạng rất là nghiêm túc và đòi hỏi thời gian học tập, có khi kéo dài cả hai, ba chục năm để hoàn tất. Bây giờ ở Tây Tạng hầu như không còn nơi nào người ta có thể theo đuổi những lớp học như thế từ lúc khởi đầu cho đến khi hoàn tất. May ra chỉ còn ở những vùng thật xa xôi hẻo lánh, nơi mà nhà cầm quyền Trung Cộng chưa với tay đến được. Kết quả là, trình độ học vấn truyền thống tại Tây Tạng đang xuống đến mức thấp nhất, đó là lý do khiến hàng ngàn người trẻ Tây Tạng đã không còn một chọn lựa nào khác hơn là tìm đến Ấn Ðộ để theo đuổi việc học tập nghiên cứu tại các tu viện lưu vong.
Như vậy, mặc cho những tuyên truyền mà mọi người đều biết, thực tế là đang có một nỗ lực đầy tính toán nhằm thủ tiêu nền văn hoá của chúng tôi. Cho dù có chủ mưu hay không, sự xâm lăng của thực dân Trung Cộng là nguyên nhân chính gây nên nạn diệt chủng nền văn hoá Tây Tạng”.
Nhận định chung cho phong trào đấu tranh BBÐ của Tây Tạng là một thất bại vì chính sách đồng hoá cuả CSTQ rất độc ác và thâm hiểm. Những cố gắng đối thoại trực tiếp với chính quyền của người lãnh đạo Tây Tạng không đem lại kết quả nào vì chủ trương của Trung Quốc bằng mọi giá phải duy trì nền đô hộ tại Tây Tạng.Tuy nhiên sự tranh đấu của những vị Lạt Ma và những chiến sỹ Dân Chủ tại Tây tạng đã buộc Trung Quốc phải áp dụng chính sách tự trị,ban hành một số quyền lợi ưu đải dành cho người dân Tây Tạng để làm dịu cơn sốt đấu tranh,nhưng ngọn lửa đấu tranh âm ỷ vẫn còn trong lòng của những người dân Tây Tạng.
d) Ðấu tranh bất bạo động ở Liên Xô 1991 : http://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn_X%C3%B4
“ Năm 1985 Tổng bí thư mới được bầu, Mikhail Sergeyevich Gorbachov, và những người cùng chí hướng như Aleksandr Nikolayevich Yakovlev bắt đầu tiến hành chính sách cải tổ (perestroika – Перестройка) và công khai hóa (glasnost – Гласность) để giải phóng các tiềm năng chưa được khai thác của xã hội. Cải tổ tìm cách nới lỏng sự kiểm soát tập trung của Đảng và nhà nước trong một số lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, tự do hóa ngôn luận, bầu cử cạnh tranh và tiến đến loại bỏ sự can thiệp của các cơ cấu đảng vào kinh tế và một số mặt của đời sống chính trị xã hội. Nhưng những nỗ lực cải cách đã không thu được kết quả như mong đợi. Khi sự tích cực của dân chúng dâng cao thì khủng hoảng xuất hiện và trở nên sâu sắc: các tổ chức và trào lưu dân tộc chủ nghĩa xuất hiện ngày càng nhiều và càng có xu hướng chống Xô viết đòi độc lập. Tốc độ và quy mô của các sự kiện làm những người chủ xướng cải cách không còn kiểm soát được tình hình và bị cuốn theo các sự kiện. Các thành quả kinh tế thì còn rất nhỏ bé mà khủng hoảng chính trị ngày càng trầm trọng: các lực lượng đòi ly khai dần dần nắm các vị trí lãnh đạo của các Nước Cộng hòa và ra các tuyên bố về chủ quyền của Nước Cộng hòa. Xung đột sắc tộc trở nên phức tạp có đổ máu thậm chí có nơi chính quyền các Nước Cộng hòa lãnh đạo cuộc xung đột với các Nước Cộng hòa lân cận. Mâu thuẫn dân tộc cực kỳ lớn trong lòng Liên Xô trước đây vẫn bị dấu kín nay đã bộc lộ và tiến triển không thể kiểm soát được. Một khi tình hình hỗn loạn thì các mối liên hệ kinh tế giữa các vùng miền và các nước cộng hòa cũng bị gián đoạn làm tình hình kinh tế trở nên nguy ngập, tình hình xã hội trở nên hỗn loạn. Các đảng viên cộng sản phân ly và mất hoàn toàn sự kiểm soát và kỷ luật của Đảng và trở thành các lực lượng quốc gia dân tộc chủ nghĩa. Ngay Xô viết Tối cao Nga, nước cộng hòa trụ cột của Liên Xô, cũng ra nghị quyết đặt luật pháp nước cộng hòa cao hơn hiến pháp Liên Xô, quyền lực của nhà nước Liên Xô dần trở thành hình thức.
Ngày 19 tháng 8 năm 1991 một số nhà lãnh đạo theo đường lối cứng rắn (Chủ tịch Quốc hội Lukyanov, Chủ nhiệm KGB Kryuchkov, Phó Tổng thống Yanaev, Thủ tướng Pavlov) với lý do khôi phục sự thống nhất của Liên bang Xô viết tiến hành đảo chính, lập Uỷ ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp, tước bỏ quyền lực của Tổng thống Liên Xô Gorbachov và đưa quân đội vào thủ đô. Nhưng lực lượng đảo chính không đạt được sự ủng hộ của dân chúng và quân đội, đảo chính càng làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước cộng hòa và các thế lực chính trị lãnh đạo các khu vực. Chỉ qua 2 ngày (21 tháng 8) Bộ trưởng Quốc phòng, Nguyên soái Yazov ra lệnh rút quân khỏi Moskva, đảo chính thất bại. Trong việc đánh bại đảo chính có vai trò nổi bật của Tổng thống Liên bang Nga Boris Yeltsin, người đã hiệu triệu dân chúng bảo vệ Nhà Trắng, trụ sở chính phủ Nga.
Sau đảo chính, tình hình biến chuyển nhanh chóng. Ngày 8 tháng 12 tại Minsk, thủ đô của Belarus, các nhà lãnh đạo ba nước cộng hòa Nga, Belarus và Ukraina ra tuyên bố ký thỏa thuận thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG – Содружество Независимых Государств), chấm dứt sự tồn tại của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết. Ngày 21 tháng 12 tại Alma Alta, thủ đô của Kazakhstan, tất cả các nước cộng hòa trừ ba nước vùng biển Baltic ký tuyên ngôn tôn trọng các tôn chỉ và mục đích của thỏa thuận thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập. Ngày 25 tháng 12 năm 1991, Liên Xô chính thức chấm dứt tồn tại.”
e) Ðấu tranh Bất Bạo Ðộng tại các nước Ðông Âu :
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/worldnews/story/2005/08/050829_polandsolidarity.shtml
Thắng lợi đầu tiên của Ba Lan dẩn đến sự sụp đổ hàng loạt các nước Cộng sản Dông Âu và luôn cả thành trì CSQT là Liên Xô.
“Chính phủ Ba Lan Cộng Sản đã phải nhượng bộ trước các đòi hỏi về quyền của công nhân và có những thay đổi chính trị nhanh chóng.
Thắng lợi của Phong trào Công đoàn Đoàn kết dưới sự lãnh đạo của ông Lech Walesa đã khuyến khích các phong trào đấu tranh vì tự do tại các nước khác ở Đông Âu, và người ta cho rằng cuối cùng đã đem lại sự sụp đổ của chế độ Cộng sản. Thắng lợi đó đã dẫn tới sự sụp đổ của bức tường Berlin và của các nước còn lại trong khối cộng sản Đông Âu
Nhưng những gì ông và Phong trào Công đoàn Đoàn kết đã đạt được tại Xưởng đóng tàu này chính là sự khởi đầu cho cuộc cách mạng của người dân mà cuối cùng đã xóa bỏ cả khối Xô viết và cũng đem lại cho người dân Ba Lan cơ hội trở thành một phần của châu Âu.
Theo ông Rakowski (Thủ Tưóng Ba Lan ), đây là kết quả của một cuộc khủng hoảng trong toàn bộ chế độ đó vì nếu người dân phần nào vẫn hài lòng chấp nhận chế độ và nếu cuộc sống của họ mỗi năm một tốt đẹp hơn thì chẳng có Phong trào Công đoàn đoàn kết nào có thể phá bỏ được chế độ đó.”
-http://www.nsvietnam.com/62kinhnghiem.html Sau đây là nhận định của Liên Minh Dân Chủ một chính đảng có uy tín ở Hãi Ngoại về những kinh nghiệm cần học hỏi từ Cách Mạng Ba Lan :
“Nhìn lại cuộc cách mạng Ðông Âu, qua phân tích thấy chiến lược dân chủ hóa của GS Nguyễn Ngọc Huy bao gồm 3 lực chính từ quốc nội, hải ngọai và quốc tế dường như đã trùng hợp được áp dụng thành công tại đó, nhứt là ở những nơi gặp khó khăn gian nan nhiều nhứt như Ba Lan và Nam Tư.
Xét kỹ về chính sách kêu gọi Ðại Phản Tỉnh của Giáo Sư Nguyễn Ðình Huy và PT/ TNDT/ XD DC sẽ thấy có nét chính rất giống như chính sách kêu gọi Ðoàn Kết Xóa Bỏ Hận Thù của lãnh tụ công đoàn Walesa tại Ba Lan.
Tai sao vậy? Tại vì cả hai đều ý thức muốn họat động công khai và thành công tại quốc nội dưới sự kiểm sóat khắc khe của đảng cộng sản phải có chính sách khôn ngoan đắc nhân tâm dựa vào 2 điểm chính yếu :
1) phải chủ trương ôn hoà bất bạo động để nhà cầm quyền không có cớ đàn áp và nhờ đó đồng bào mới dám tham dự gia nhập đông đảo ( kinh nghiệm qua sự thành công của Thánh Gandhi ở Ấn Ðộ)
2) phải chủ trương phản tỉnh xoá bỏ hận thù để tạo được thành phần cộng sản phản tỉnh ngay trong cơ cấu cầm quyền. Chính đạo quân thứ 5 này là yếu tố tất yếu để thành công sớm hay muộn cho tiến trình chuyển hóa.
Thật vậy nếu nghiên cứu phân tích kỹ diển tiến tại Trung Cộng vào tháng 6 năm 1989 và tại Nam Tư vào tháng 10 năm 2000 thì sẻ thấy rõ chân lý cách mạng này:
1. Mặc dù quy tụ được hàng triệu người về Bắc Kinh và Thượng Hải biểu tình chống nhà cầm quyền với khí thế tưởng như nắm chắc thắng trong tay, nhưng vì giới lãnh đạo sinh viên không chú tâm kêu gọi hoặc không thuyết phục được một lực lượng cộng sản phản tỉnh nào ra mặt ủng hộ - nhứt là trong quân đội cảnh sát - nên cuối cùng bị Ðặng Tiểu Bình phản công đưa quân đội sắc tộc thiểu số về đàn áp đánh bại thê thảm.
2. Trong khi đó, con số người về biểu tình tại thủ đô Nam Tư tuy ít, nhưng vì giới lãnh đạo có kinh nghiệm nhiều hơn nên đã biết móc nối được ngay lực lượng cộng sản phản tỉnh nằm trong guồng máy cầm quyền. Nhờ đó không bị đàn áp như đã từng xảy ra tại Thiên An Môn và cuối cùng lực lượng dân chủ Nam Tư đã thành công rực rở.
Từ đó có thể giải thích khá chính xác một trong những lý do quan trọng : Tại sao cho đến nay chưa thành công dân chủ hóa tại Việt Nam, Trung Cộng, Bắc Hàn và Cuba?
Bởi vì lực lượng cộng sản phản tỉnh ở đó còn quá ít (Bắc Hàn và Cuba) hoặc quá yếu (Việt Nam và Trung Cộng), đưa đến hậu quả tất yếu là lực lượng dân chủ ngoài đảng phải họat động lẻ loi thiếu yểm trợ quý báu ngấm ngầm từ ngay trong bộ máy cầm quyền nên gặp nhiều đàn áp khó khăn chưa thể sớm thành công được”.
Nhận định phải chủ trưong Ôn Hoà Bất Bạo Ðộng để nhà cầm quyền không có cớ đàn áp và nhờ đó đồng bào mới dám tham dự gia nhập đông đảo ( kinh nghiệm qua sự thành công của Thánh Gandhi ở Ấn Ðộ) v à Công Ðoàn Ðoàn Kết Ba Lan đó là những kinh nghiệm quý báu đã được chứng minh qua lịch sử đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ.
-Những nguời Việt đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ trong và ngoài nước đã kết hợp chặc chẻ nhằm giải thể chế độ CS : http://www.nsvietnam.com/online/binhluan/112606-bantuyenngon.html Nhận định của nhà bình luận chính trị Ðào Văn Bình :
“Ngòai ra, đã từ lâu, kể từ năm 1990, tôi luôn luôn quan niệm rằng khối người Việt đang sống lưu vong ở hải ngọai phải là một chi thể bất khả phân ly của Tổ Quốc. Do đó cuộc đấu tranh của họ phải là một chi thể của cuộc đấu tranh chung của cả dân tộc. Không thể chỉ có cuộc đấu tranh chống cộng riêng lẻ cho người Miền Nam hoặc Người Quốc Gia như trước đây. Tất cả những ai giương cao ngọn cờ Tự Do, Dân Chủ đều đi đúng hơi thở của dân tộc, họ đang nói lên khát vọng chân chính nhất của dân tộc và họ xứng đáng được tòan dân hỗ trợ dù trong hay ngòai nước. Và tôi đã từng viết các bài nghị luận tiên đóan rằng chỉ khi nào cách mạng ở hải ngọai bắt tay được với cách mạng ở trong nước thì lịch sử mới sang trang. Chỉ khi đó cuộc đấu tranh trong nước mới chuyển hóa thành một giai đọan mới đầy sinh khí, đầy sức sống với tầm vóc dân tộc và quốc tế mỗi ngày mỗi lan rộng và dồn bạo quyền vào thế càng chống đỡ càng tuyệt vọng do bởi sự thức tỉnh của người dân trong nước và sức mạnh công phá của khối ba triệu người Việt hải ngọai.”… “Tòan dân Việt Nam không còn lựa chọn nào khác. Quốc nội cần chuẩn bị tinh thần hy sinh và chấp nhận mọi tình huống xấu nhất. Hải ngọai cần thao thức, tận dụng mọi khả năng sẵn có của mình, làm bất cứ điều gì để hỗ trợ cho mặt trận đấu tranh trong nước. Sau hết giới trẻ Việt Nam trong và ngòai nước cần thức tỉnh, can đảm đứng đậy để đấu tranh cho tiền đồ của Tổ Quốc. Các bạn trẻ trong nước chẳng có gì để mất ngòai một tương lai đen tối, một chế độ bất công, một xã hội băng họai, một chính quyền gian ác, một ngục tù bao la với mạng lưới chó săn chim mồi, công an dày đặc triệt hủy mọi quyền sống của con người. Dân tộc Việt Nam đang đứng trứơc một thử thách lớn nhất trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước” .
III)Sau khi đã lựa chọn phương thức đấu tranh ,chúng ta cần phải tiến hành những bước tiến thế nào :
Sau đây là những đề nghị để mọi người dân quan tâm đến hiện tình và tương lai Ðất Nước.Người viết chỉ nhìn với một góc độ nhỏ hẹp,kính mong quý vị và các bạn cùng đóng góp để vach ra con đường phải đi trong tương lai .
1 -Phổ biến rộng rải ,nâng cao dân trí về Quyền Con Người.
2 -Phổ biến rộng rải về chế độ Tự Do Dân Chủ ở các nước tiến bộ đã đạt được gồm có những gì.
3 -Phổ biến cho toàn dân nhu cầu canh tân đất nước trước thềm Thiên Niên Kỷ mới,phải dẹp bỏ vật cản đường là đảng CSVN đi thì mới có tiến bộ được.
4-Phổ biến cho mọi người biết rỏ tình trạng tham nhủng thối nát từ trên xuống dưới,bán rẻ tài nguyên
đất nước, khai thác cùng kiệt tài ngiuyên thiên nhiên,phá hoại môi trường sống vì tham nhũng và vì dốt nát.
5 -Phá hoại đạo Ðức cổ truyền,tập quán Dân Tộc,phá hoại nền tảng gia đình của tập đoàn CSVN bằng chủ thuyết ngoại lai từ Liên Sô ,Trung Quốc. Ðảng CSVN chỉ phục vụ cho Quốc Tế CS và quyền lợi của đảng mà thôi còn quyền lợi Dân Tộc bị chà đạp.
6-Kêu gọi Công An và Bộ Ðội từ bỏ đảng CSVN để trở về phục vụ cho Dân Tộc (lấy kinh nghiệm từ chiến dịch Cữu Bình bên Trung Quốc đã có trên 17 triệu đảng viên CSTQ bỏ đảng http://9binh.com/9b/binh0.html ) Theo website THOÁI ĐẢNG của thời báo Đại Kỷ Nguyên, thống kê kể từ ngày 3/12/2004, số người thoái xuất khỏi đảng và các tổ chức liên quan có tổng số: http://tuidang.dajiyuan.com/ 17.624.095, tháng này: 717.284, tuần này: 225.287, hôm qua: 47.053, hôm nay: 31.572. Tính theo giờ Bắc Kinh.
7 -Ðòi hỏi và đấu tranh để có Tự Do Ngôn Luận,Tự Do Báo Chí ,Tự DoThông Tin (nên nhớ thứ Tự Do nào mà do xin mà có là không thật vì bọn cầm quyền khi vui thì cho,khi buồn thì lấy lại ).
8 -Vạch rỏ và phổ biến rộng rải những nguy hại to lớn cho tương lai ÐấtNước và Dân Tộc nếu còn chế độ thối nát hiện nay như:Nợ nước ngoài ngày càng chồng chất 20 tỷ Mỹ Kim .CSVN sẳn sang bán
rẻ đất nứơc cho ngoại bang Tàu ,Nga, Tư bản để vơ vét, bóc lột sức laođộng của Công Nhân và Nông Dân VN. Bỏ mặc tệ nạn xả hội ngày càngphát triển, vơ vét đưa con em của chúng đi du học ngoại quốc.Thiên tai bảolụt thì tạo tham ô nhiều,không lo cứu trợ nạn nhân .Luôn kêu gào van xin nứớc ngoài và kiều bào hải ngoại còn chúng thì mặc tình đút túi tiền cứu trợ.
9-Lấy nguyện vọng của người dân trong nươc là chính,kêu gọi Quốc tế hổ trợ cho công cuộc đấu tranh của các phong trào đấu tranh hiện nay.Cổ Vỏ những tổ chức, cá nhân thực sự đấu tranh cho Quốc Gia Dân Tộc chớ không hổ trợ cho những bọn Ðối Lập Cải Lương.
10- Hải Ngoại sử dụng lá phiếu cử tri, ngoại giao để tranh thủ các chính khách quốc tế ủng hộ giải pháp giải thể chế độ CS .Vận động Truyền thông Quốc Tế lên án chế độ thối nát độc tài hiện nay.
11-Phương châm hành động: đấu tranh là cho tương lai đất nước cần phải có tấm lòng rộng mở,không hẹp hòi,không vì lòng căm thù. (dù CSVN đã gây nhiều nợ máu với Dân Tộc,từng gia Ðình ,từng cá nhân ) Ðấu tranh là lo cho thế hệ tương lai không mang một định kiến nào .
IV)Kết luận :Trong việc lựa chọn phương cách đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ và Nhân Quyền cho Dân Tộc Việt Nam có không ít những chủ trương khác nhau từ : Ôn Hoà Bất bạo Ðộng , đến chủ trương vỏ trang Quân Sự,bạo động,khủng bố v.v…chúng ta phải tìm và chọn phương cách nào chắc chắn thành công (qua kinh nghiệm lịch sử) dù có chậm nhưng không gây đổ vở và tan thương như Cộng Sản đã làm cho Ðất Nước Việt nam trong lịch sử. Tương lai Ðất Nước kỳ vọng nơi giới trẻ trong và ngoài nước thành phần hiện nay chiếm gần 70% dân số.
Sau khi lựa chọn thì phải kiên trì đeo đuổi mục tiêu là làm thế nào phải Giải Thể Chế Ðộ thối nát để xây dựng một chế độ Dân Chủ Tự Do thông qua Quốc Hội và Hiến Pháp mới cho Việt Nam thân yêu.
Long Ðiền
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét